Vaccine-nation: Poisoning the Population, One Shot at a Time (2011)

=====
Lưu ý các bài comment bên dưới bài này bạn nên chọn chế độ Sắp xếp comment là "Cũ nhất" để đọc theo thứ tự chương đúng. Mặc định là sắp xếp để "Mới nhất" nên sẽ bị ngược 1 số chỗ do quá trình tải bài viết có sửa chữa.
Bạn có thể bấm vào các tiêu đề trong mục lục gạch chân (có link) để nhảy đến phần comment có chứa mục tương ứng.
Cập nhật mới nhất: 22/8/2025 : Chương 7 - Cúm lợn: Đại dịch không hề có kết quả!
=====
Tác giả của hàng chục cuốn sách, bao gồm cả cuốn sách bán chạy nhất Timeless Secrets of Rejuvenation and Health và Cancer is Not a Disease, Andreas Moritz tiếp tục đề cập đến một chủ đề gây tranh cãi khác, lần này là để vạch trần Huyền thoại về vắc-xin. Trong Vaccine-nation, Moritz vạch trần lời nói dối lớn nhất về vắc-xin – rằng vắc-xin an toàn và chúng ngăn ngừa bệnh tật. Hơn nữa, ông tiết lộ bằng chứng khoa học không thể chối cãi rằng vắc-xin thực sự có liên quan đến hầu hết các bệnh tật hiện nay.
Cuốn sách này tiết lộ:
• Bằng chứng thống kê cho thấy vắc-xin chưa bao giờ thực sự xóa sổ các bệnh truyền nhiễm, bao gồm cả bệnh bại liệt.
• Vắc-xin cho trẻ em, vắc-xin cúm và các loại vắc-xin khác phá hủy hệ thống miễn dịch của cơ thể như thế nào.
• Sự gia tăng mạnh mẽ các bệnh dị ứng, bệnh chàm, viêm khớp, hen suyễn, tự kỷ, trào ngược axit, ung thư, tiểu đường (trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ), bệnh thận, sảy thai, nhiều bệnh về thần kinh và tự miễn dịch, và Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS) phần lớn là do vắc-xin.
• Tại sao trẻ em được tiêm vắc-xin mắc bệnh hen suyễn nhiều hơn 120%, ADHD nhiều hơn 317%, rối loạn thần kinh nhiều hơn 185% và tự kỷ nhiều hơn 146% so với những trẻ không được tiêm vắc-xin.
• Thực tế gây sốc là hầu hết các đợt bùng phát bệnh truyền nhiễm xảy ra chủ yếu ở những người đã được tiêm vắc-xin đầy đủ.
• Vắc-xin không có thử nghiệm an toàn dài hạn và hầu hết các tác dụng phụ của vắc-xin không bao giờ được báo cáo để bảo vệ các nhà sản xuất vắc-xin khỏi các vụ kiện trách nhiệm pháp lý.
Trong nhiều thập kỷ, tất cả chúng ta đều bị dẫn dắt để tin rằng vắc-xin đã xóa sổ những căn bệnh truyền nhiễm đáng sợ nhất, bao gồm bại liệt,...
Trong Vaccine-nation, Moritz không nói bóng gió khi làm sáng tỏ những điều này và những bí mật khác trong tủ của Big Pharma và cảnh báo bạn không nên tin vào những tuyên bố sáo rỗng của các nhà sản xuất vắc-xin. Với phong cách đặc trưng của mình, Moritz đưa ra cách tiếp cận nhẹ nhàng và thiết thực để có một cuộc sống không bệnh tật, dựa trên điểm tựa là sự kết nối giữa tâm trí và cơ thể, thanh lọc cơ thể và lối sống lành mạnh tự nhiên.
Quốc gia vắc-xin: Đầu độc dân số, từng phát một
Andreas Moritz
Các sách và sản phẩm khác của Andreas Moritz:
· The Amazing Liver and Gallbladder Flush - Quá trình làm sạch gan và túi mật tuyệt vời
· Timeless Secrets of Health and Rejuvenation - Bí quyết trường tồn của sức khỏe và sự trẻ hóa
· Cancer Is Not a Disease - Ung thư không phải là một căn bệnh
· Lifting the Veil of Duality - Vén bức màn của tính hai mặt
· It's Time to Come Alive - Đã đến lúc sống lại
· Feel Great, Lose Weight - Cảm thấy tuyệt vời, giảm cân
· Heal Yourself with Sunlight - Chữa lành bằng ánh nắng mặt trời (Có bản dịch tiếng Việt)
· Simple Steps to Total Health - Các bước đơn giản để có sức khỏe toàn diện
· Heart Disease No More! - Bệnh tim không còn nữa!
· Diabetes-No More! - Bệnh tiểu đường-Không còn nữa!
· Ending the AIDS Myth - Chấm dứt huyền thoại về AIDS
· Hear the Whispers, Live Your Dream - Hãy lắng nghe lời thì thầm, hãy sống ước mơ của bạn
· Sacred Santémony - Santémony thiêng liêng
· Ener-Chi lonized Stones - Đá Ener-Chi
· Ener-Chi Art - Nghệ thuật năng lượng-Chi
Tất cả những sách trên đều có bán tại www.ener-chi.com, www.amazon.com và các hiệu sách trực tuyến hoặc truyền thống khác.
Quốc gia vắc-xin
Andreas Moritz
Được xuất bản bởi Ener-Chi Wellness Press - Ener-chi.com, Hoa Kỳ (tháng 2 năm 2011) tại Smashwords
Thiết kế bìa bởi Writerforce, Ấn Độ (www.writerforce.com)
Bản quyền © 2011 của Andreas Moritz
Mọi quyền được bảo lưu. Không được sao chép, lưu trữ trong hệ thống truy xuất hoặc truyền tải bất kỳ phần nào của ấn phẩm này dưới bất kỳ hình thức hoặc phương tiện nào, điện tử, cơ học, photocopy, ghi âm hoặc cách khác, mà không có sự cho phép trước bằng văn bản của chủ sở hữu bản quyền.
Ghi chú giấy phép
Sách điện tử này chỉ được cấp phép để bạn thưởng thức cá nhân. Sách điện tử này không được bán lại hoặc tặng cho người khác. Nếu bạn muốn chia sẻ cuốn sách này với người khác, vui lòng mua thêm một bản cho mỗi người nhận. Nếu bạn đang đọc cuốn sách này và không mua nó, hoặc nó không được mua để bạn sử dụng, thì vui lòng quay lại Smashwords.com và mua bản sao của riêng bạn. Cảm ơn bạn đã tôn trọng công sức của tác giả này.
Vì lý do hợp pháp
Tác giả của cuốn sách này, Andreas Moritz, không ủng hộ việc sử dụng bất kỳ hình thức chăm sóc sức khỏe cụ thể nào nhưng tin rằng các sự kiện, số liệu và kiến thức những thông tin được trình bày ở đây nên được cung cấp cho mọi người quan tâm đến việc cải thiện tình trạng sức khỏe của mình. Mặc dù tác giả đã cố gắng đưa ra sự hiểu biết sâu sắc về các chủ đề được thảo luận và đảm bảo tính chính xác và đầy đủ của bất kỳ thông tin nào có nguồn gốc từ bất kỳ nguồn nào khác ngoài nguồn của mình, tác giả và nhà xuất bản không chịu trách nhiệm về các lỗi, sự không chính xác, sự thiếu sót hoặc bất kỳ sự không nhất quán nào ở đây. Bất kỳ sự coi thường nào đối với mọi người hoặc tổ chức đều là vô ý. Cuốn sách này không nhằm mục đích thay thế lời khuyên và phương pháp điều trị của bác sĩ chuyên khoa điều trị bệnh tật. Bất kỳ việc sử dụng thông tin được nêu ở đây hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của người đọc. Tác giả và nhà xuất bản không chịu trách nhiệm về bất kỳ tác dụng phụ hoặc hậu quả nào phát sinh từ việc sử dụng bất kỳ chế phẩm hoặc quy trình nào được mô tả trong cuốn sách này. Các tuyên bố đưa ra ở đây chỉ nhằm mục đích giáo dục và lý thuyết và chủ yếu dựa trên ý kiến và lý thuyết của riêng Andreas Moritz. Người đọc nên luôn tham khảo ý kiến của bác sĩ chăm sóc sức khỏe trước khi dùng bất kỳ loại thực phẩm bổ sung chế độ ăn uống, dinh dưỡng, thảo dược hoặc vi lượng đồng căn nào, hoặc bắt đầu hoặc ngừng bất kỳ liệu pháp nào. Tác giả không có ý định cung cấp bất kỳ lời khuyên y khoa nào, cũng không cung cấp bất kỳ sự thay thế nào, và không đưa ra bất kỳ bảo đảm nào, dù là rõ ràng hay ngụ ý, liên quan đến bất kỳ sản phẩm, thiết bị hoặc liệu pháp nào. Ngoại trừ những ghi chú khác, không có tuyên bố nào trong cuốn sách này được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ hoặc Ủy ban Thương mại Liên bang xem xét hoặc chấp thuận. Người đọc nên sử dụng phán đoán của riêng mình hoặc tham khảo ý kiến của chuyên gia y khoa toàn diện hoặc bác sĩ riêng của họ để áp dụng cụ thể cho các vấn đề cá nhân của họ.
MỤC LỤC
2.1. Một vài sự thật đơn giản
2.2. Những lầm tưởng về vắc-xin
2.3. Đại dịch là do con người tạo ra
2.4. Cái chết của Big Pharma
3.1. Định nghĩa bệnh tật
3.2. Sự thật về Virus
3.4. Kháng thể do tổn thương do vắc-xin.
3.5. Vắc-xin ức chế khả năng miễn dịch.
3.6. Lây nhiễm cho người tình nguyện
3.7. Có gì trong lọ đó?
3.8. Những “sai lầm” về vắc-xin
4.1. Cuộc tranh cãi về bệnh bại liệt
4.2. Vắc-xin gây bệnh
4.3. Ồ! Chúng tôi quên mất
4.4. Ngữ nghĩa của bệnh tật
4.6. Chuyển đổi bệnh
5.1 Phần I: CUỘC CHIẾN VỚI TRẺ SƠ SINH
5.1.1. Cuộc tàn sát thời hiện đại?
5.1.2. Ai sẽ được lợi?
5.1.3. Một công chúng thiếu hiểu biết
5.1.4. Đột tử
5.1.5. Tấn công sớm
5.2 Phần II: CUỘC CHIẾN BÊN TRONG
5.2.1. Những 'Lỗi' chết người
5.2.2. Thu hồi vắc xin
5.2.3. Bí mật nội bộ
5.2.4. Quả bom hẹn giờ vắc-xin
5.2.5. Gây nên cơn bão
5.3 Phần III: TOÀN THẾ GIỚI LÀ PHÒNG THÍ NGHIỆM
5.3.1. Tranh cãi về HPV
5.3.3. AIDS - Virus do con người tạo ra?
5.3.4. Trở thành Retro (sao chép ngược): Hội chứng mệt mỏi mãn tính
5.3.5. Nghiên cứu vắc-xin: Giả mạo!
5.3.6. Nơi Hai thế giới gặp nhau
5.3.8. Chúng ta có thể tin tưởng vào nghiên cứu y khoa không?
5.3.9. Các công ty dược phẩm lớn đang hoành hành
6.1. WHO quyết định sức khỏe của bạn?
6.3. Luật về tiêm chủng bắt buộc
6.4. Bạn đã từng "nghe" được điều này chưa?
6.6. Ngọc trai trước khi có cúm lợn
6.7. Cánh cửa dẫn đến diệt chủng?
7.1. Tiêm chủng cho trẻ em của chúng ta
7.2. CFS: Bệnh bại liệt thời đại mới
7.3. Bệnh bại liệt có tên gọi khác?
7.6. Viêm gan B: Sát thủ giết chết trẻ sơ sinh
8.2. Mối liên hệ giữa vắc-xin và bệnh tự kỷ
8.4. Tự kỷ và bệnh tự miễn dịch
8.5. Cuộc tranh luận về Thimerosal
8.7. Bí mật bẩn thỉu của Merck
8.8. Vụ kiện tụng mang tính bước ngoặt
8.9. Có nên tiêm vắc-xin hay không?
9.2. Ai phải chịu trách nhiệm?
9.3. Hàng tỷ đô la trôi xuống cống
9.4. Tiền làm cho vi-rút lây lan!
9.7. Những người đứng đầu được yêu thích nhất của ngành dược phẩm
10.1. Bí mật đen tối, lạnh lẽo của mùa đông
10.3. Vắc-xin cúm không có tác dụng
10.4. Thuyết âm mưu về vắc-xin cúm?
10.6. Nhắm vào những người yếu thế
11.1. Tâm trí vượt qua vật chất
11.2. Bạn là bác sĩ của chính mình
11.3. Gian lận giả dược làm mất hiệu lực hầu hết các thử nghiệm lâm sàng
11.6. Mẹo hữu ích về cách đối phó với nhiễm trùng một cách tự nhiên
======
Lưu ý các bài bên dưới bạn nên chọn chế độ Sắp xếp comment là "Cũ nhất" để đọc theo thứ tự chương đúng. Mặc định là sắp xếp để "Mới nhất" nên sẽ bị ngược 1 số chỗ do quá trình tải bài viết có sửa chữa.
Bạn có thể bấm vào các tiêu đề gạch chân (có link) trong mục lục để nhảy đến phần comment có chứa mục tương ứng.

13. Giới thiệu về Andreas Moritz
>>Trước: 12. Chương 10 - Kết luận
Andreas Moritz (sinh ngày 27 tháng 1 năm 1954), một nhà văn người Mỹ sinh ra và lớn lên ở Tây Nam nước Đức, cũng là một giảng viên về Ayurveda, y học tích hợp, và tâm trí, cơ thể và tinh thần. Ông cũng chuyên về sáng tạo mỹ thuật như một phương thức chữa bệnh. Moritz bắt đầu sự nghiệp của mình tại châu Âu với tư cách là một nhà nghiên cứu mống mắt (khoa học về diễn giải mắt) với trọng tâm đặc biệt là xác định và giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của bệnh tật. Ông là cựu lãnh đạo của phong trào Thiền Siêu Việt ('TM'). Vào giữa những năm 1990, ông bắt đầu xuất bản sách self-help về y học thay thế và sự kết hợp tâm trí/cơ thể/tinh thần.
Cuộc sống ban đầu, giáo dục và thành tựu
Từ năm sáu tuổi, Andreas Moritz đã phải đối mặt với một số bệnh nghiêm trọng (ví dụ như viêm khớp trẻ em, loạn nhịp tim, thiếu máu, thường xuyên ngất xỉu và hội chứng ruột kích thích [IBS]). Mặc dù các lĩnh vực quan tâm chính của anh là kiến trúc, âm nhạc và thể thao, anh không có lựa chọn nào khác ngoài việc dành phần lớn thời thơ ấu của mình để cố gắng hiểu tại sao anh lại ốm yếu như vậy. Theo đó, ở tuổi 12, Moritz bắt đầu nghiên cứu chế độ ăn uống, dinh dưỡng và các phương pháp chữa bệnh tự nhiên và sức khỏe khác nhau. Năm 1970, Moritz bắt đầu thực hành kỹ thuật Thiền Siêu Việt (TM) và Yoga, giúp chấm dứt tình trạng huyết áp thấp bất thường và những cơn ngất xỉu thường xuyên của anh. Đến năm 19 tuổi, Moritz đã hoàn toàn phục hồi sức khỏe mà không cần y học cổ truyền hay sự can thiệp từ bên ngoài.
Sau 14 năm học tiểu học và đại học tại Aalen, một thị trấn đẹp như tranh vẽ ở Tây Nam nước Đức, Moritz đã nhận bằng tốt nghiệp trung học phổ thông (Abitur) tại trường Schubert Gymnasium, đủ điều kiện vào đại học để học lên cao. Năm 1974, Moritz hoàn thành Khóa Đào tạo Giáo viên kéo dài bảy tháng, trở thành giáo viên dạy kỹ thuật Thiền Siêu Việt (TM). Ông đã giảng dạy thiền cho hàng ngàn người trên khắp thế giới trong suốt 20 năm.
Năm 1980, sau khi hoàn thành khóa đào tạo về mống mắt với chú của mình, Tiến sĩ Harry Kirchofer, một bác sĩ về mống mắt và bác sĩ thiên nhiên hàng đầu tại Đức vào thời gian này (1914-1996), Moritz đã tiến hành nghiên cứu và thực hiện nghiên cứu về y học tâm/thân tại Đại học Nghiên cứu Châu Âu Maharishi (MERU) ở Seelisberg, Thụy Sĩ.
Năm 1981, trong quá trình đào tạo tại MERU, Moritz bắt đầu nghiên cứu y học Ayurveda. Để học hỏi từ những bác sĩ Ayurveda nổi tiếng nhất thế giới, bao gồm Tiến sĩ V. M. Dwivedi, Tiến sĩ Balraj Maharishi và Tiến sĩ Brihaspati Dev Triguna, Moritz đã đến New Delhi, Ấn Độ (1981-1982). Từ năm 1982-1983, Moritz đã giới thiệu cho các nguyên thủ quốc gia và thành viên chính phủ ở Ethiopia và Kenya những phương pháp chăm sóc sức khỏe toàn diện và tiết kiệm chi phí hơn so với những phương pháp hiện có ở các quốc gia châu Phi nghèo đói này vào thời điểm đó.
Năm 1991, Moritz hoàn thành khóa đào tạo Ayurveda và được cấp bằng hành nghề Ayurveda (vaidya) tại New Zealand.
Moritz sống trên đảo Síp từ năm 1985 đến năm 1998, từ đó ông đi khắp thế giới, đích thân thuyết trình và cung cấp các phương thức chữa bệnh thay thế cho các nhà lãnh đạo chính phủ lâm bệnh nặng, bao gồm cả cố Thủ tướng Hy Lạp, Andreas Papan-dreou.
Thay vì chỉ hài lòng với việc điều trị các triệu chứng của bệnh, thường gây ra các tác dụng phụ có hại, Moritz đã dành cả cuộc đời mình để tìm hiểu và giải quyết hiệu quả các nguyên nhân gốc rễ của bệnh tật, từ đó cho phép cơ thể tự chữa lành một cách tự nhiên.
Năm 1988, Moritz đã học và tốt nghiệp ngành nghệ thuật chữa bệnh shiatsu của Nhật Bản tại Trường Shiatsu Anh ở London, Anh, nơi đã giúp ông có được hiểu biết sâu sắc về hệ thống năng lượng của cơ thể.
Năm 1998, Moritz di cư đến Minnesota, Hoa Kỳ, nơi ông kết hôn và bắt đầu cung cấp dịch vụ của mình cho người dân Mỹ.
Tính đến tháng 12 năm 2010, Andreas Moritz cũng là tác giả của 13 cuốn sách, nhiều cuốn đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ nước ngoài, bao gồm tiếng Nga, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Trung, tiếng Đức, tiếng Nhật, tiếng Hy Lạp, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Pháp, tiếng Hà Lan và tiếng Ý. Những cuốn sách này bao gồm: Bí quyết vượt thời gian về sức khỏe và trẻ hóa (Timeless Secrets of Health and Rejuvenation), Phương pháp làm sạch gan và túi mật kỳ diệu (The Amazing Liver and Gallbladder Flush), Ung thư không phải là bệnh! Đó là một cơ chế sinh tồn (Cancer Is Not a Disease! - It's A Survival Mechanism), Vạch trần bức màn của tính hai mặt (Lifting the Veil of Duality), Đã đến lúc sống lại (It's Time to Come Alive), Không còn bệnh tim nữa! (Heart Disease No More!), Các bước đơn giản để có sức khỏe toàn diện (Simple Steps to Total Health), Không còn bệnh tiểu đường nữa! (Diabetes-No More!), Kết thúc huyền thoại về AIDS (Ending the AIDS Myth), Chữa lành bản thân bằng Ánh nắng mặt trời (Heal Yourself with Sunlight), cảm thấy tuyệt vời (Feel Great), giảm cân (Lose Weight ) và Lắng nghe lời thì thầm - Sống với ước mơ của bạn (Hear The Whispers-Live Your Dream).
Các chủ đề về sức khỏe và thể chất được iHealth-Tube ghi lại và đăng tải trên trang web của ông, www.ener-chi.com . Trong nhiều năm, Andreas đã điều hành một diễn đàn miễn phí "Hỏi Andreas Moritz" trên trang web sức khỏe lớn này, nơi hơn bốn triệu độc giả đã đọc hoặc bình luận về các bài viết của ông.
Kể từ khi định cư tại Hoa Kỳ vào năm 1998, Andreas đã tham gia vào việc phát triển một hệ thống chữa bệnh mới và sáng tạo - gọi là Ener-Chi Art™™™ - nhắm vào nguyên nhân gốc rễ của nhiều bệnh mãn tính. Ener-Chi Art bao gồm một loạt các bức tranh sơn dầu được mã hóa bằng tia sáng, có thể khôi phục ngay lập tức dòng chảy năng lượng sống (Chi) trong các cơ quan và hệ thống của cơ thể. Andreas cũng là người sáng lập Sacred Santémony - một hệ thống mạnh mẽ sử dụng tần số âm thanh và năng lượng được tạo ra đặc biệt, có thể biến những nỗi sợ hãi, dị ứng, chấn thương và những rào cản tinh thần hoặc cảm xúc sâu xa thành những cơ hội hữu ích để phát triển và truyền cảm hứng chỉ trong vài phút.
12. Chương 10 - Kết luận
>>Trước: 11.6 Mẹo hữu ích về cách đối phó với nhiễm trùng một cách tự nhiên
Sau khi đọc dữ liệu tôi đã trình bày trong cuốn sách này, câu hỏi hợp lý tiếp theo là: nếu bạn không tiêm phòng bệnh tật, làm sao bạn có thể bảo vệ sức khỏe của mình?
Nếu cuốn sách này đã hé mở dù chỉ một chút trong tâm trí bạn và bạn có thể nhìn nhận bản chất thực sự của trò chơi vắc-xin, thì phần còn lại thật dễ dàng. Chúng ta thường mặc định rằng sống khỏe mạnh đồng nghĩa với việc không có bệnh tật. Nhưng nếu đảo ngược điều đó, bạn sẽ đi đến kết luận sau: "Sự vắng mặt của bệnh tật nằm ở lối sống lành mạnh". Và trong sự thay đổi ngữ nghĩa tinh tế đó, ẩn chứa một sự thay đổi hoàn toàn trong cách bạn nhìn nhận cuộc sống của mình.
Điều này có nghĩa là trước tiên phải xác định nguồn gốc của lối sống không lành mạnh, và có rất nhiều! Điều này cũng đòi hỏi một chút tự vấn để xác định thói quen sống, cũng như các yếu tố cảm xúc và tính cách góp phần gây ra bệnh tật và sức khỏe kém.
Việc không tiêm vắc-xin cũng đòi hỏi một niềm tin vững chắc vào các phương thuốc tự nhiên, phương pháp chữa trị tự nhiên và sự kết nối với thế giới tự nhiên. Tôi không ủng hộ cách tiếp cận trở về với thiên nhiên. Điều đó là không thể trong thế kỷ 21. Tuy nhiên, hầu hết chúng ta đã đi quá xa khỏi bản chất thực sự và nguồn gốc tiến hóa của mình. Quá trình chữa lành bắt đầu khi bạn hiểu và chấp nhận sự thật cơ bản này. (Nếu bạn quan tâm, có thể tìm hiểu thêm về chủ đề này trong cuốn sách "Bí quyết vượt thời gian về sức khỏe và trẻ hóa" của tôi).
Dù có thể sẽ lặp lại, tôi xin nhắc lại rằng thiên nhiên không bao giờ có ý định để bạn nạp chất độc hóa học vào cơ thể, dù tốt hay xấu. Thiên nhiên đã tạo ra một hiệu thuốc tự nhiên tuyệt vời - bên trong cơ thể con người và trong môi trường xung quanh.
Thực hiện theo những nguyên tắc này, bạn sẽ tự động bắt đầu tăng cường hệ miễn dịch. Và đó chính là lớp áo giáp thực sự của bạn chống lại bệnh tật. Khi cần thiết, các liệu pháp thay thế rất có lợi vì chúng củng cố mối liên hệ giữa tâm trí và cơ thể, vốn là trung tâm của hệ miễn dịch, sức khỏe tốt và bệnh tật.
Nhưng trước khi kết thúc, đây là cái nhìn thoáng qua về tương lai của vắc-xin, ít nhất là tương lai được nhìn nhận bởi các nhà nghiên cứu vắc-xin, những người luôn say mê với công việc. Hiện có 145 loại vắc-xin khác đang được phát triển và thử nghiệm lâm sàng, nhưng nhờ Đại học California nghiên cứu về việc thiếu tiết lộ giả dược trong các thử nghiệm lâm sàng, giờ đây chúng ta biết những thử nghiệm này có thể phi khoa học và gian lận như thế nào.
Các công ty dược phẩm đang tìm kiếm một thị trường ngày càng mở rộng và ổn định tại Hoa Kỳ cho những loại vắc-xin mới này, và chúng ta có thể dự đoán rằng các nhà vận động hành lang có thể sẽ gây sức ép lên chính phủ để bắt buộc sử dụng nhiều loại vắc-xin này, cho cả trẻ em và người lớn. Sau đây là một vài ví dụ về những gì sắp diễn ra:
Vắc-xin chống căng thẳng: Và cuối cùng, một giải pháp cho tai họa của cuộc sống hiện đại - một loại vắc-xin chống lại căng thẳng. Ít nhất đó là điều Tiến sĩ Robert Sapolsky của Đại học Stanford đang hứa hẹn. Thậm chí còn trớ trêu hơn: vắc-xin được đề xuất có thể sử dụng virus herpes - một loại virus! - để đưa các gen "bảo vệ thần kinh" đã được biến đổi gen vào sâu trong não bộ, giúp chúng ta thoát khỏi căng thẳng mãn tính và tạo ra trạng thái "tập trung bình tĩnh".
Vào giữa năm 2010, Tiến sĩ Sapolsky tuyên bố rằng những gen biến đổi này sẽ giúp ngăn chặn việc sản xuất glucocorticoid, một chất tích tụ trong cơ thể khi bị căng thẳng kéo dài. Theo ông, glucocorticoid đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra phản ứng "chiến đấu hay bỏ chạy", một phản ứng thiết yếu cho sự sống còn. Nhưng con người dường như đã mất khả năng ngăn chặn chúng. Vì vậy, chúng ta cần sự trợ giúp của một loại virus!
Vị bác sĩ tài giỏi này đã nghiên cứu "vắc-xin chống stress" của mình suốt ba thập kỷ, và thử nghiệm trên người vẫn còn rất xa vời. Nhưng chắc chắn nguồn tài trợ sẽ đổ về. Hãy tưởng tượng thị trường tiềm năng cho một sản phẩm như thế này. Không còn phải vật lộn với những trạng thái cảm xúc phức tạp - chính những điều làm nên con người chúng ta, cho phép chúng ta học hỏi và trưởng thành về sự tự tin và trí tuệ. Chỉ cần tiêm một mũi hoặc uống một viên thuốc!
Ống tiêm trên cánh: Khoa học hiện đang thử nghiệm một số phương tiện vận chuyển vắc-xin khá hiện đại. Và nếu những thí nghiệm tiên tiến này thành công, giới khoa học có thể sớm công bố "vắc-xin bay" và "vắc-xin ăn được".
Sử dụng khoản tài trợ hào phóng từ Quỹ Bill và Melinda Gates nổi tiếng vào tháng 10 năm 2008, một nhóm các nhà nghiên cứu từ Đại học Y Jichi ở Nhật Bản đang cố gắng biến muỗi thành 'ống tiêm biết bay', "vì vậy khi chúng cắn người, chúng sẽ tiêm vắc-xin".
Trong khi trao tiền tài trợ trên toàn cầu, bao gồm cả nhóm nghiên cứu Nhật Bản, quỹ này cho biết họ đang tìm cách "tài trợ cho nghiên cứu vượt ra ngoài phạm vi các mô hình khoa học đã biết".
Ăn vặt: Nhóm nghiên cứu Nhật Bản không phải là nhóm các nhà khoa học duy nhất can thiệp vào thiên nhiên để phục hồi sức khỏe cho chúng ta. Các nhà khoa học tại Đại học bang Iowa đang nghiên cứu 'vắc-xin ăn được' bằng cách biến đổi gen cây ngô để cung cấp khả năng miễn dịch cho cả con người ăn ngô và động vật ăn ngô.
Điều này đã được báo cáo trên tạp chí thương mại Meat And Poultry, một ấn phẩm chuyên ngành, trong bài báo ngày 5 tháng 5 năm 2009. Các nhà nghiên cứu đề xuất xác định các gen cụ thể trong các mầm bệnh cụ thể (như virus cúm lợn) gây ra các bệnh cụ thể và sau đó đưa các gen này vào kiểu gen của ngô. Các nhà nghiên cứu hy vọng ngô biến đổi gen này sẽ chứa vật liệu di truyền của mầm bệnh trong kiểu gen của nó.
Các thí nghiệm cố gắng đưa vắc-xin vào chuỗi thực phẩm (thông qua thực phẩm cho người và thức ăn chăn nuôi) theo cách này có thể gây ra những vấn đề đạo đức nghiêm trọng. Ít nhất, các nhà sản xuất thực phẩm ở Hoa Kỳ đã có thể giải quyết vấn đề minh bạch trong quá trình dán nhãn sản phẩm. Kết quả là, người tiêu dùng không thực sự biết liệu họ đang tiêu thụ thực phẩm biến đổi gen hay thực phẩm không biến đổi gen.
Thứ hai, sẽ không có cách nào biết được các nhà khoa học đang đưa những hỗn hợp gen độc hại nào vào những loại trái cây và rau củ tưởng chừng vô hại, và chính xác thì họ đang thử nghiệm cái gì. Biến con người thành vật thí nghiệm trên bàn ăn chẳng khác nào lừa dối và phi đạo đức.
Hãy tưởng tượng cảnh bạn đang ăn vắc-xin từ một túi khoai tây chiên khổng lồ hoặc ngũ cốc ăn sáng trong một bát sữa! Tiêm vắc-xin qua thực phẩm chế biến sẵn sẽ khiến mạng sống của bạn gặp nguy hiểm gấp đôi. Tiếp theo là gì?
Kháng thể robot: Bước tiến tiếp theo trong lĩnh vực vắc-xin là kháng thể nhân tạo. Các nhà khoa học tại Đại học Emory ở Atlanta đã tạo ra một kháng thể nhân tạo nhắm vào các khối u ung thư với sự trợ giúp của một công cụ sinh học tiên tiến khác: hạt nano.
Kháng thể có kích thước lớn và không thể tiếp cận được các ngóc ngách của khối u. Vào tháng 1 năm 2009, các nhà khoa học tại Đại học Emory tuyên bố rằng họ đã vượt qua rào cản này bằng cách tạo ra một kháng thể tổng hợp có kích thước nhỏ hơn 20% so với kháng thể tự nhiên. Tiếp theo, họ tìm ra cách liên kết kháng thể nhân tạo với một hạt nano. Vũ khí kép này sau đó đã được sử dụng để nhắm vào khối u ung thư ở chuột.
Cơ chế hoạt động của nó như thế nào? Kháng thể là những tác nhân được tạo ra để đáp ứng với nhiễm trùng hoặc quá trình gây bệnh trong cơ thể người. Nhiều kháng thể trong số đó mang tính đặc hiệu vì chúng liên quan đến một bệnh cụ thể như ung thư. Trong trường hợp này, các nhà khoa học đã chế tạo một kháng thể kháng EGFR (thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì) nhân tạo, có thể nhắm vào khối u và liệu điều này có thể được sử dụng như một phương tiện hiệu quả để vận chuyển hạt nano. Các nhà khoa học cho biết kỹ thuật này cũng có thể được sử dụng cho mục đích chẩn đoán và điều trị.
Các hạt nano xuất hiện trên hình ảnh chụp cộng hưởng từ (MRI) và được coi là công cụ chẩn đoán hữu ích. Chúng cũng có thể được sử dụng để vận chuyển thuốc và do đó được coi là chất mang điều trị hiệu quả.
Vì vậy, được trang bị một phương tiện có thể đi đến nơi chưa từng có phương tiện nào từng đến trước đây (kháng thể nhân tạo) và một chất mang thuốc (hạt nano), các nhà khoa học tin rằng họ có thể sử dụng công nghệ mới này trong chẩn đoán và điều trị ung thư.
Kháng thể là chất đối kháng của kháng nguyên hoặc tác nhân virus hoạt động trong vắc-xin. Nếu các nhà nghiên cứu có thể sản xuất kháng thể nhân tạo cho khối u, việc sử dụng công nghệ này cho vắc-xin có thể là bước đi hợp lý tiếp theo.
Phép thuật y khoa có thể quyến rũ đến khó cưỡng. Nhưng đừng nhầm lẫn. Càng can thiệp vào quy luật tự nhiên, hậu quả đối với cơ thể càng lớn. Biến đổi gen gây hại cho sức khỏe!
Tôi muốn khuyến khích bạn tham gia Trung tâm Thông tin Vắc-xin Quốc gia (NVIC) để góp phần bảo vệ quyền được đồng ý tiêm chủng một cách có hiểu biết. NVIC muốn hỗ trợ bạn, các thành viên của họ, tổ chức và tạo ra sự khác biệt tại tiểu bang của bạn (chỉ áp dụng tại Hoa Kỳ) ngay tại nơi bạn sinh sống để bảo vệ và mở rộng các trường hợp miễn trừ vắc-xin. Chính sách tiêm chủng đại trà được xây dựng ở cấp tiểu bang, và cũng chính ở cấp tiểu bang, hành động của bạn nhằm bảo vệ quyền lợi của mình có thể mang lại tác động lớn nhất. Ngoài ra, khi có vấn đề về vắc-xin trên toàn quốc, bạn sẽ được cung cấp thông tin và các hành động cần thiết để đảm bảo tiếng nói của bạn được lắng nghe.
Trang web: www.nvicadvocacy.org
Facebook: www.facebook.com/national.vaccine
>>Tiếp: 13. Giới thiệu về Andreas Moritz
11.6 Mẹo hữu ích về cách đối phó với nhiễm trùng một cách tự nhiên
>>Trước: 11.5 Nhà thuốc thiên nhiên
1. Nhận thức rằng bạn hoặc con bạn đang bị nhiễm trùng và cơ thể cùng các vi khuẩn liên quan đang nỗ lực hết sức để phục hồi sức khỏe và sinh lực. Để hỗ trợ cơ thể trong quá trình này, chúng ta phải đảm bảo cơ thể có đủ năng lượng để tự làm sạch, phục hồi và chữa lành. Điều này chỉ có thể xảy ra nếu chúng ta cho phép cơ thể được nghỉ ngơi. Nếu không, chúng ta có thể sử dụng hết năng lượng của cơ thể, nếu không quá trình chữa lành sẽ bị đình trệ hoặc chậm lại.
2. Cố gắng tránh dùng thuốc. Các loại thuốc như paracetamol dạng lỏng chỉ ức chế phản ứng chữa lành của cơ thể và dẫn đến nhiều vấn đề thể chất và cảm xúc "không liên quan" hơn trong tương lai.
3. Đối với trẻ em, thời gian bị bệnh thường là cách để nhận được thêm sự quan tâm chăm sóc chu đáo từ cha mẹ. Bé có thể được ôm ấp, ăn trên giường, nghe kể chuyện trước khi đi ngủ, v.v. Tất nhiên, có thể có những bậc cha mẹ cảm thấy bệnh tình của con mình rất bất tiện và thể hiện sự bực bội bằng cách tỏ ra gay gắt và vô cảm với con. Trẻ em bị bệnh cần và xứng đáng được đối xử và trấn an đặc biệt, đặc biệt là khi chúng sợ hãi hoặc lo lắng.
4. Trẻ bị bệnh không nên quá phấn khích hoặc bị kích thích bởi việc tiếp xúc quá nhiều với radio, tivi, hoặc thậm chí là khách đến thăm. Các hoạt động yên tĩnh như đọc sách, vẽ và chơi trò chơi trên bàn cờ sẽ giúp trẻ tránh suy nghĩ quá nhiều về bệnh tật. Đảm bảo trẻ được ngủ đủ giấc bằng cách đi ngủ sớm và ngủ trưa nếu cảm thấy mệt mỏi.
5. Trẻ em bị bệnh cần uống nhiều nước để giúp đào thải độc tố ra khỏi cơ thể. Nước ấm là thức uống tốt nhất cho trẻ và nên là lựa chọn đầu tiên; trà thảo mộc, nước ép cà rốt tươi pha loãng, nước cốt chanh hoặc chanh xanh pha chút mật ong (tránh nước cam chanh nếu trẻ bị quai bị).
6. Tránh cho trẻ ăn bất cứ thứ gì lạnh, chẳng hạn như đồ uống lạnh, kem, đường hoặc thực phẩm chứa đường; sữa, sữa chua hoặc các sản phẩm từ sữa khác; thịt, gà, cá hoặc bất kỳ loại thực phẩm protein nào khác. Vì khả năng tiêu hóa của trẻ bị suy yếu trong thời gian bị bệnh, những thực phẩm như vậy sẽ chỉ làm thối rữa và axit hóa hệ tiêu hóa và gây kích ứng thêm niêm mạc. Trẻ em bị bệnh, giống như động vật bị bệnh, thường không muốn hoặc không cần thức ăn. Nhịn ăn, chỉ uống nước, là cách tốt nhất để thúc đẩy phản ứng chữa lành của cơ thể. Khi trẻ cảm thấy đói, hãy cho trẻ ăn rau củ xay nhuyễn mới nấu, súp, ngũ cốc nóng như cháo/bột yến mạch với một ít đường dừa hoặc với mật ong chất lượng tốt. Bỏ đói một bệnh nhiễm trùng sẽ tốt hơn là nuôi dưỡng nó.
7. Trẻ em cần biết điều gì đang xảy ra với mình khi bị bệnh và rằng nó sẽ sớm qua đi. Các em cũng muốn được trấn an rằng bạn sẽ luôn ở bên cạnh các em.
8. Nếu con bạn bị sốt, đó là dấu hiệu của phản ứng miễn dịch khỏe mạnh. Nhiệt độ tăng cao cho thấy cơ thể đang chủ động kiểm soát tình hình và đang chống lại nhiễm trùng. Cha mẹ nên nhớ rằng nhiệt độ cao không nhất thiết có nghĩa là con bạn đang bị bệnh nặng. Như đã được phát hiện gần đây, ngay cả nhiệt độ 41 độ C, hoặc 106 độ F, hoặc cao hơn một chút vẫn không được coi là nguy hiểm đến tính mạng. Điều quan trọng nhất cần nhớ là trẻ em và trẻ sơ sinh dưới sáu tháng tuổi bị sốt cần uống nhiều nước, vì trẻ có xu hướng mất nước nhanh chóng. Lau khô bằng nước ấm giúp cơ thể dễ chịu hơn trong giai đoạn chữa lành này. Chỉ nên chườm và lau từng phần cơ thể cho đến khi thấy mát, sau đó chuyển sang phần tiếp theo. Việc lau mặt và trán cho trẻ cũng giúp giảm đau. Và hãy nhớ rằng, sốt kích thích hệ miễn dịch, làm sạch độc tố khỏi cơ thể, tăng nhiệt độ đủ cao để vi khuẩn xâm nhập không thể sống sót, tạo ra nhiều kháng thể và bạch cầu hơn để giúp cơ thể hồi phục, đồng thời ngăn chặn sắt mà vi khuẩn hấp thụ. Khi cơ thể hoàn thành nhiệm vụ, cơn sốt sẽ tự nhiên giảm xuống.
9. Một nguyên tắc cơ bản khác là giữ ấm và quấn kín trẻ bị sốt. Điều này sẽ giúp trẻ đổ mồ hôi, đặc biệt là vào ban đêm, và giúp hạ sốt, báo hiệu "cuộc chiến" của cơ thể sắp kết thúc. Trẻ bị sốt nên được giữ mát và thỉnh thoảng ngâm mình trong bồn nước ấm. Nếu con bạn có các triệu chứng kèm theo như phát ban ngứa, sưng hạch đau, ho hoặc đau mắt, mắt bị chảy nước, trẻ rất có thể sẽ hồi phục mà không gặp bất kỳ biến chứng nào. Trong trường hợp trẻ có bất kỳ triệu chứng bất thường nào, bạn có thể tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa về Ayurveda, vi lượng đồng căn, y học cổ truyền Trung Quốc, v.v. để được điều trị tại nhà.
10. Tốt hơn hết là không nên cho trẻ em uống aspirin khi bị bệnh vì thuốc này làm chậm phản ứng hạ sốt và cản trở quá trình tự chữa lành của cơ thể. Nếu bác sĩ nhất quyết kê đơn kháng sinh cho con bạn khi bé mắc một trong những bệnh hoặc triệu chứng nêu trên, hãy tìm một bác sĩ khác để xin ý kiến. Chiết xuất Pau d'Arco, chiết xuất lá ô liu và tiếp xúc với ánh sáng mặt trời (để tạo vitamin D) có thể hiệu quả hơn kháng sinh mà không gây ra bất kỳ tác dụng phụ nào. Trong hầu hết các trường hợp, không cần dùng thuốc. Trong một nghiên cứu lớn được công bố năm 1987 trên Tạp chí Y khoa Anh, 18.000 trẻ em đã được điều trị bằng liệu pháp vi lượng đồng căn chống lại bệnh viêm màng não. Không có trẻ nào bị nhiễm trùng và không có bất kỳ tác dụng phụ nào phát triển từ phương pháp điều trị này.
11. Để phòng ngừa chung, đừng đưa con đến nhà trẻ hoặc nhà trẻ quá sớm. Điều này có thể bảo vệ bé khỏi nhiều bệnh tật thời thơ ấu. Ví dụ, các cơ sở nhà trẻ làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm màng não do Hib lên gấp 24 lần. Nhiều nhà trẻ thương mại thường xuyên bị đủ loại vi khuẩn "ghé thăm". Môi trường an toàn nhất cho trẻ trong những năm đầu đời chính là gia đình.
12. Người lớn có thể được hưởng lợi từ một số lần xông hơi ngắn hoặc xông hơi hồng ngoại để giúp loại bỏ độc tố nhanh hơn.
13. Vì các chất độc trong ruột kết và gan luôn khiến cơ thể khó chữa lành hơn, nên thụt tháo bằng cà phê, thụt tháo bằng nước, Colema hoặc thụt rửa đại tràng có thể nhanh chóng làm giảm mức độ nghiêm trọng của nhiễm trùng hoặc ngăn chặn hoàn toàn. (Để biết thêm thông tin về các phương pháp làm sạch gan và đại tràng, hãy xem Bí quyết Sức khỏe Vượt thời gian). Cần tránh táo bón bằng mọi giá. Thụt rửa bằng cà phê kích thích mật trong gan và giúp gan loại bỏ độc tố.
14. Các loại thảo mộc tăng cường miễn dịch như Pau D'Arco, chiết xuất lá ô liu, Echinacea, hoàng kỳ, hoàng kỳ và chiết xuất hạt bưởi cũng có thể hữu ích. Đối với các trường hợp nhiễm trùng tại chỗ, bạn có thể sử dụng mật ong thô, đất sét bentonite, đất sét xanh hoặc túi chườm nước tiểu (hiệu quả nhất). Quả cơm cháy đã được sử dụng như một bài thuốc dân gian chữa cảm cúm, cảm lạnh và ho từ thời Hippocrates. Và gần đây, một nhà khoa học Israel đã phát hiện ra chính xác lý do tại sao nó rất hiệu quả. Trong một nghiên cứu có kiểm soát, trong đó bệnh nhân cúm hồi phục trong thời gian kỷ lục, bà phát hiện ra rằng quả cơm cháy thực sự "vô hiệu hóa" virus. Virus không thể xâm nhập vào thành tế bào của bệnh nhân.
15. Hãy để tình trạng nhiễm trùng tự khỏi, ngay cả khi nó kéo dài một hoặc hai tuần, hoặc lâu hơn. Việc ngăn chặn có thể dẫn đến nhiễm trùng tái phát và mỗi lần lại trở nên nghiêm trọng hơn. Thay vào đó, hãy loại bỏ độc tố khỏi cơ thể, và nhu cầu nhiễm trùng sẽ tự nhiên biến mất.
>>Tiếp: 12. Chương 10 - Kết luận
11.5 Nhà thuốc thiên nhiên
>>Trước: 11.4 Xin một chút nắng!
Giống như cơ thể là bác sĩ giỏi nhất, Thiên nhiên là nhà thuốc dồi dào nhất cho loài người. Mọi hợp chất mà cơ thể cần để tự chữa lành và phục hồi, và dĩ nhiên, để duy trì sức khỏe tốt, đều có sẵn trong tự nhiên.
Có hàng trăm loại thực phẩm có đặc tính chữa bệnh tuyệt vời. Nhiều loại có đặc tính tăng cường miễn dịch, trong khi một số khác lại có tác dụng chống khối u. Nếu không tuân theo công thức của Mẹ Thiên Nhiên, bạn rất có thể sẽ sớm mắc bệnh. Nói cách khác, điều này có nghĩa là càng phụ thuộc vào thực phẩm chế biến sẵn, bạn càng dễ mắc bệnh. Bạn không chỉ bị thiếu hụt dinh dưỡng tự nhiên mà thực phẩm chế biến sẵn còn chứa đầy chất phụ gia hóa học, gây hại và làm thay đổi bản chất của thực phẩm mà chúng được thêm vào.
Mặt khác, bằng cách ăn uống từ bàn ăn của Thiên nhiên, bạn có thể không bao giờ bị bệnh ngay từ đầu. Và nếu bạn bị bệnh bây giờ, trong quá trình tìm kiếm phương pháp chữa trị thực sự cho căn bệnh của mình, bạn có thể khám phá ra rằng thực phẩm lành mạnh, nước sạch và không khí trong lành, tâm trạng thoải mái, giấc ngủ ngon và lượng ánh nắng mặt trời dồi dào vẫn là liều thuốc tốt nhất mà bạn có thể tìm thấy.
Ăn uống theo thể trạng cũng rất tốt. Bởi vì mỗi thể trạng phản ứng khác nhau với cùng một loại thực phẩm và cần những loại thực phẩm khác nhau để có sức khỏe tối ưu. (Để biết thêm chi tiết về thể trạng và siêu thực phẩm, bạn có thể tham khảo cuốn sách "Bí quyết trẻ hóa và sức khỏe vượt thời gian" - Timeless Secrets of Rejuvenation and Health của tôi).
>>Tiếp: 11.6 Mẹo hữu ích về cách đối phó với nhiễm trùng một cách tự nhiên
11.4 Xin một chút nắng!
>>Trước: 11.3 Gian lận giả dược làm mất hiệu lực hầu hết các thử nghiệm lâm sàng
Một cách để bật công tắc chữa lành là đảm bảo bạn nhận đủ ánh sáng mặt trời. Ánh sáng mặt trời là một trong những thứ mà chúng ta thường bỏ qua hoặc coi là hiển nhiên, có lẽ vì nó miễn phí, nhưng nó lại là nguồn năng lượng mang lại sự sống, duy trì mọi sự sống trên hành tinh. Thiên nhiên không bao giờ sai lầm, và hẳn phải có một lý do rất chính đáng tại sao loài người được sinh ra để sống dưới sự bảo vệ của mặt trời.
Để tôi lật ngược lại vấn đề. Tại sao những người sống nhiều trong nhà lại dễ bị ốm hơn? Tại sao bệnh cúm lại tấn công những người sống ở vùng ôn đới nhiều hơn vùng nhiệt đới? Điểm chung ở đây là ánh sáng mặt trời. Lối sống đô thị đã trở nên quá chú trọng vào không gian trong nhà đến mức chúng ta dường như tránh nắng ở mọi cơ hội.
Chúng ta rời nhà đi làm bằng xe hơi (kèm kính râm hoặc kính chắn tia UV), dành cả ngày làm việc trong môi trường có nhiệt độ được kiểm soát, lái xe về nhà hoặc bắt tàu điện ngầm trong những hoàn cảnh tương tự, rồi lại chìm vào giấc ngủ trước màn hình tivi hoặc máy tính ở nhà vào buổi tối. Đối với những người dành nhiều thời gian ở ngoài trời, đeo kính râm là một lựa chọn hợp thời trang, và dù có phải đối mặt với chói mắt hay không, thì đây vẫn là điều bắt buộc. Ý tôi muốn nói đơn giản là: chúng ta không để cơ thể tiếp xúc đủ với ánh sáng mặt trời.
Nhưng tại sao ánh sáng mặt trời lại quan trọng đến vậy? Về mặt sức khỏe và khả năng miễn dịch, ánh sáng mặt trời xúc tác quá trình tổng hợp Vitamin D, một chất đóng vai trò quan trọng trong nhiều quá trình khác nhau của cơ thể con người, bao gồm tổng hợp các enzyme, hormone và chất dẫn truyền thần kinh. Vitamin D rất cần thiết cho quá trình hấp thụ canxi và tăng cường phản ứng miễn dịch của cơ thể.
Bạn có biết Vitamin D đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa ung thư, loãng xương và trầm cảm, đồng thời giúp ngăn ngừa các bệnh tật hiện đại như tiểu đường và béo phì không? Vitamin D ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm hiệu quả hơn nhiều so với vắc-xin. Nhưng trước khi thảo luận về điều đó, hãy cùng tìm hiểu các khía cạnh khác nhau của Vitamin D.
Vitamin D có trong một số loại thực phẩm, nhưng bạn không thể bổ sung đủ lượng vitamin D cần thiết cho cơ thể thông qua chế độ ăn uống. Cách tốt nhất và đáng tin cậy nhất để bổ sung đủ vitamin D là tiếp xúc với ánh nắng mặt trời vừa phải mỗi ngày. Ánh nắng mặt trời sẽ "kích hoạt" quá trình tổng hợp vitamin D trong da.
Chính dải tia cực tím trong ánh sáng mặt trời kích hoạt Vitamin D và tạo ra phản ứng dây chuyền phức tạp liên quan đến thận và gan, chuyển đổi Vitamin D không hoạt động thành dạng hoạt động - một loại hormone hoạt động gọi là cal-citriol.
Trong số những lợi ích chính của vitamin D, vitamin D giúp cơ thể duy trì sự cân bằng canxi và phốt pho cần thiết. Vitamin D cũng giúp cơ thể hấp thụ canxi. Đây là lý do tại sao vitamin D rất quan trọng cho xương và răng chắc khỏe. Những người thiếu vitamin D sẽ có xương giòn. Trẻ em có thể bị còi xương (bệnh này hiện đang tái phát mạnh), trong khi người lớn có thể bị loãng xương. Thiếu hụt vitamin D cũng có thể dẫn đến hen suyễn, dị ứng, bệnh Alzheimer, không dung nạp gluten, rối loạn học tập và hành vi, rối loạn tự miễn và bệnh Parkinson. (Để biết thêm về lợi ích của ánh nắng mặt trời và vitamin D, bạn có thể đọc cuốn sách của tôi, "Chữa Lành Với Ánh Nắng Mặt Trời" - Heal Yourself With Sunlight).
Bao nhiêu vitamin D?: Chỉ cần 20 phút dưới ánh nắng mặt trời buổi trưa, từ ba đến bốn lần một tuần là đủ cho nhu cầu của cơ thể. Không có gì thay thế được điều này, bởi thực tế là bạn không thể hấp thụ đủ lượng vitamin D cần thiết từ thực phẩm. Một số loại thực phẩm chứa vitamin D là cá béo như cá hồi, cá tuyết và cá thu. Những loại cá này không chỉ không được ăn thường xuyên mà bạn còn cần ăn chúng nhiều lần một tuần để có đủ lượng vitamin D cần thiết.
Những người khác tin rằng sữa bổ sung và nước cam là đủ. Nhưng sự thật là bạn cần uống mười ly sữa hoặc nước cam mỗi ngày để cơ thể bạn hấp thụ đủ lượng vitamin cần thiết. Vitamin tổng hợp cũng không hiệu quả bằng ánh sáng mặt trời vì chúng chỉ cung cấp chưa đến một nửa nhu cầu, đồng thời lại quảng bá cho quan niệm sai lầm về sức khỏe tốt.
Cũng giống như mức độ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời khác nhau ở mỗi cá nhân, những người sống ở các châu lục khác nhau cũng tiếp xúc với lượng và kiểu ánh sáng mặt trời khác nhau. Nói một cách đơn giản: Càng sống xa đường xích đạo, bạn càng ít tiếp xúc với ánh sáng mặt trời (tia UV) và càng dễ bị thiếu hụt vitamin D. Tuy nhiên, những người sống ở vùng cao như vùng núi Thụy Sĩ lại có nồng độ tia UV cao hơn và có xu hướng có mức vitamin D khỏe mạnh hơn.
Tình trạng này trở nên tồi tệ hơn vào mùa đông, khi ánh sáng mặt trời rất yếu. Cách tốt nhất để giải quyết vấn đề này là tiếp xúc đủ ánh sáng mặt trời vào mùa hè và mùa xuân, và sử dụng đèn vitamin D hoặc đèn UV trong những tháng lạnh hơn. Đi nghỉ ở một vùng đất ấm áp, đầy nắng vào mùa đông cũng có ích. Khi cơ thể tổng hợp đủ vitamin D, nó sẽ lưu trữ lượng vitamin D dư thừa trong mỡ và giải phóng khi nồng độ vitamin D giảm. Điều này gây ra vấn đề cho những người béo phì, khi mỡ dường như không thể giải phóng lại lượng vitamin D dự trữ.
Ngoài ra, nếu cơ thể bạn đã sản xuất đủ vitamin D trong mùa hè, lượng dự trữ sẽ kéo dài khoảng ba tháng trước khi bị thiếu hụt. Bạn cũng có thể bổ sung vitamin D trong những tháng mùa đông lạnh giá và u ám, nhưng điều này có thể nguy hiểm. Bạn cần theo dõi cẩn thận nồng độ vitamin D trong máu để đảm bảo không bị quá liều, vì nếu uống vào có thể gây ngộ độc và thậm chí tử vong. Nếu vitamin này được sản xuất để đáp ứng với ánh sáng mặt trời, cơ thể sẽ theo dõi nồng độ của nó và đảm bảo bạn không bao giờ có quá nhiều vitamin D trong máu.
Màu da cũng ảnh hưởng đến việc sản xuất vitamin D trong cơ thể. Người da sẫm màu cần tiếp xúc với ánh nắng mặt trời nhiều hơn khoảng 20 đến 30 lần so với người da trắng và rất sáng. Tuy nhiên, hãy đảm bảo bạn không bị cháy nắng. Ngay khi da bắt đầu ửng đỏ, đó là dấu hiệu cho thấy bạn đã đáp ứng đủ nhu cầu vitamin D. Tuy nhiên, hãy đảm bảo bạn không sử dụng kem chống nắng và kính râm, nếu không chúng sẽ phá hoại mọi mục đích! Như đã giải thích trong cuốn sách Heal Yourself with Sunlight của tôi, kính râm cản trở quá trình tiết ra một loại hormone quan trọng của não có tác dụng điều hòa sản xuất melanin trong da, từ đó bảo vệ da khỏi tác hại của tia cực tím A.
Sự thật đáng kinh ngạc là khoảng 40 phần trăm người Mỹ bị thiếu hụt vitamin D; 42 phần trăm phụ nữ Mỹ gốc Phi trong độ tuổi sinh đẻ bị thiếu hụt vitamin này; và hơn 75 phần trăm phụ nữ mang thai ở Hoa Kỳ bị thiếu hụt nghiêm trọng loại vitamin thiết yếu này. Mặc dù đáng sợ, những thống kê này không có gì đáng ngạc nhiên nếu xét đến mức độ ít vận động và khép kín của cuộc sống hiện nay. Một số nhà nghiên cứu cho rằng khoảng 85% dân số Mỹ bị thiếu vitamin D.
Vitamin D ngăn ngừa ung thư: Bạn có biết rằng có rất nhiều nghiên cứu cho thấy mối tương quan nghịch giữa việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời (tia UV) với ung thư vú, đại tràng, trực tràng, tuyến tiền liệt và buồng trứng không? Không còn nghi ngờ gì nữa, Vitamin D cũng có mối tương quan trực tiếp với hệ miễn dịch của cơ thể. Khi nói đến khả năng miễn dịch, loại vitamin này được quan sát thấy có khả năng đặc biệt trong việc tăng cường phản ứng miễn dịch bẩm sinh của cơ thể, một phản ứng tổng quát đối với các vi khuẩn có hại tiềm ẩn. Đây là một phản ứng không đặc hiệu, chung chung, không giống như hệ miễn dịch thích ứng, vốn "ghi nhớ" các tác nhân gây bệnh và phản ứng với chúng một cách chọn lọc.
Trong nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Da liễu Điều tra - Journal of Investigative Dermatology, người ta phát hiện ra rằng tia UV kích thích một chất hóa học trong da, tiền chất của một peptide kháng khuẩn gọi là LL-37. Thật hợp lý khi phản ứng miễn dịch tự nhiên tuyệt vời này diễn ra ở da, bởi da là lớp áo giáp bảo vệ, hay nói cách khác là nơi cơ thể tiếp xúc đầu tiên với mọi kích thích từ thế giới bên ngoài. Da là cơ quan lớn nhất trong cơ thể và là tuyến phòng thủ đầu tiên trước khi vi khuẩn xâm nhập vào các lớp bảo vệ khác. Một ví dụ khác về logic tối cao của tự nhiên!
Nhưng Vitamin D thực sự hoạt động như thế nào ở cấp độ tế bào? Khi tia UV chiếu vào da, nó tương tác với một loại cholesterol đặc biệt trong da, và cholesterol này kích hoạt gan và thận chuyển hóa Vitamin D thành Vitamin D3. Vitamin D3 là dạng hoạt động của Vitamin D, giúp tăng cường chức năng hệ miễn dịch, kiểm soát sự phát triển của tế bào và hấp thụ canxi từ ruột.
Vitamin D3 thực sự có thể ức chế sự phát triển của khối u ác tính, ung thư vú, bệnh bạch cầu và khối u vú. Nó cũng đã được chứng minh là có tác dụng ức chế sự hình thành mạch máu mới, tức là sự phát triển của các mạch máu mới tạo điều kiện cho các tế bào ung thư lây lan khắp cơ thể.
Các dẫn xuất tổng hợp của Vitamin D3 đã được phát hiện có khả năng ngăn chặn sự lây lan của tế bào ung thư vú và làm thoái lui các khối u vú thực nghiệm. Điều này được cho là đúng vì Vitamin D và các dẫn xuất của nó tham gia vào việc điều hòa biểu hiện gen và các sản phẩm protein ngăn ngừa ung thư vú.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng một số loại tế bào ung thư có chứa thụ thể vitamin D, khiến chúng dễ bị ảnh hưởng bởi tác dụng chống ung thư của loại vitamin-hormone này, hay còn gọi là vitamin D3. Đúng vậy, chất đơn giản này, vốn có rất nhiều trong da, thực chất là một hormone ức chế khối u!
Năm 2007, Hiệp hội Ung thư Canada đã có một bước tiến lớn khi quảng bá Vitamin D để phòng ngừa ung thư thông qua chương trình quốc gia. Nhưng Hiệp hội Ung thư Mỹ vẫn từ chối thừa nhận những lợi ích to lớn của hóa chất tự nhiên này. Và tại sao họ lại làm vậy? Việc thừa nhận rằng cơ thể là "dược sĩ" tốt nhất của chính nó đồng nghĩa với việc tước đi hàng tỷ đô la mà các chuyên gia dược phẩm và bác sĩ X-quang kiếm được hàng năm từ ung thư.
Hãy nghĩ xem. Hai từ thường được nhắc đến nhất khi nói đến ung thư là gì? "Sàng lọc" và "Điều trị". Hai từ đơn giản mà chính phủ Hoa Kỳ, các bác sĩ và các công ty dược phẩm lớn quảng bá vì lợi nhuận. Tại sao chính phủ và các công ty dược phẩm lại tự bắn vào chân mình khi thừa nhận rằng hơn 75% ung thư vú, đại tràng, tuyến tiền liệt và các loại ung thư khác (những loại phổ biến nhất) có thể được phòng ngừa và thậm chí có thể đảo ngược nhờ Vitamin D?
Điều này được phản ánh trong sự đạo đức giả của các nhóm vận động hành lang đang đấu tranh cho một "cuộc chiến chống ung thư". Thuật ngữ này sặc mùi lợi nhuận và động cơ chính trị, và không có gì ngạc nhiên khi trung tâm của tất cả những điều này lại là Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS). Các học giả nghiên cứu, những chuyên gia về các tổ chức phi lợi nhuận, đã gọi ACS là tổ chức phi lợi nhuận phi tôn giáo lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, theo một số ước tính, tổ chức này chỉ chi chưa đến 20% ngân sách cho các dịch vụ dành cho bệnh nhân ung thư.
Với nguồn quỹ lên đến hàng triệu đô la mỗi năm, đây là một hiệp hội đang tích cực ủng hộ bệnh nhân ung thư. Được vận hành như một tập đoàn công nghệ cao, ACS có trong ban lãnh đạo một số nhân vật chủ chốt của đất nước từ các lĩnh vực dược phẩm, giải trí, làm phim và nghiên cứu y học. Nguồn quỹ đổ về từ các tổ chức doanh nghiệp khác nhau mà họ điều hành - các kênh tin tức, các công ty dược phẩm lớn, các hãng phim sản xuất, v.v. - và được trả lại cho các lãnh đạo của tổ chức dưới dạng lương sáu con số, các chuyến đi thực tế, phúc lợi phụ, cùng với chi phí quản lý và lương để điều hành vô số chi nhánh của ACS trên khắp Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, thỉnh thoảng ACS lại phải quỳ gối cầu xin sự đóng góp từ công chúng vì thiếu kinh phí để chống lại bệnh ung thư.
Chưa bao giờ có trò lừa đảo nào lớn hơn thế.
Chỉ một phần nhỏ quỹ của ACS được dành cho nghiên cứu ung thư, và điều này có thể dự đoán được là sẽ hỗ trợ các công ty dược phẩm, công nghệ sinh học và các công ty liên quan tài trợ cho tổ chức. Vậy nên, ACS, tổ chức cũng tài trợ cho các chiến dịch chính trị và các chính trị gia, phải duy trì sự sống cho căn bệnh ung thư!
Trong y học hiện đại, việc tầm soát, xét nghiệm và xạ trị thường xuyên là một phần không thể thiếu trong chẩn đoán và điều trị ung thư. Vì vậy, ngoài các công ty dược phẩm sản xuất một số loại thuốc trị ung thư độc hại và đắt đỏ nhất, ACS tích cực hỗ trợ và thúc đẩy các nhà sản xuất chụp nhũ ảnh và X-quang một cách mạnh mẽ, bao gồm các nhà sản xuất như Siemens, DuPont, General Electric, Eastman Kodak và Piker.
DuPont, trớ trêu thay lại là một nhà sản xuất hóa dầu toàn cầu, lại là nhà sản xuất máy chụp nhũ ảnh lớn. Công ty tài trợ rất nhiều cho ACS, tham gia ban cố vấn của tổ chức và hỗ trợ các chương trình nâng cao nhận thức của ACS, một nền tảng lý tưởng để quảng bá sản phẩm và thiết bị của mình. DuPont cũng tài trợ cho các chương trình truyền hình và các sản phẩm truyền thông khác để quảng bá chụp nhũ ảnh, đồng thời xuất bản rất nhiều tài liệu quảng cáo cho các cơ sở y tế. Vậy thì câu "anh gãi lưng cho tôi, tôi gãi lưng cho anh" nghe có vẻ rất lợi nhuận phải không?
Nhân tiện bàn về ung thư và cách tiếp cận của y học chính thống đối với căn bệnh này, tôi xin trình bày quan điểm của mình. Trong cuốn sách "Ung thư không phải là bệnh - mà là cơ chế sinh tồn", tôi giải thích tại sao ung thư và các bệnh tật suy nhược khác không phải là bệnh thực sự mà là những nỗ lực tuyệt vọng và cuối cùng của cơ thể con người để duy trì sự sống chừng nào hoàn cảnh còn cho phép.
Có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng một người mắc phải những nguyên nhân chính gây ung thư (chính là căn bệnh thực sự) rất có thể sẽ chết nhanh chóng, trừ khi họ thực sự phát triển tế bào ung thư. Trong cuốn sách, tôi đã cung cấp bằng chứng cho điều này. Ung thư chỉ xuất hiện sau khi tất cả các cơ chế phòng vệ hoặc chữa lành khác của cơ thể đã thất bại. Trong những trường hợp cực đoan, việc tiếp xúc với một lượng lớn các tác nhân gây ung thư (chất gây ung thư) có thể khiến hệ thống phòng vệ của cơ thể suy yếu trong vòng vài tuần hoặc vài tháng, tạo điều kiện cho khối u ung thư phát triển nhanh chóng và hung hãn. Tuy nhiên, thông thường, phải mất nhiều năm, thậm chí hàng thập kỷ, những khối u được gọi là 'ác tính' này mới hình thành.
Thật không may, những quan niệm sai lầm cơ bản hoặc sự thiếu hiểu biết hoàn toàn về nguyên nhân gây ra sự phát triển của khối u đã biến những khối u "ác tính" thành những con quái vật hung dữ không có mục đích nào khác ngoài việc giết chết chúng ta để trả thù cho tội lỗi hoặc sự lạm dụng cơ thể. Tuy nhiên, tôi tin rằng ung thư đang ở bên cạnh chúng ta, chứ không phải chống lại chúng ta. Trừ khi chúng ta thay đổi nhận thức về bản chất thực sự của bệnh ung thư, nó sẽ tiếp tục kháng lại quá trình chữa lành, ngay cả khi áp dụng các phương pháp điều trị tốt nhất.
>>Tiếp: 11.5 Nhà thuốc thiên nhiên
11.3 Gian lận giả dược làm mất hiệu lực hầu hết các thử nghiệm lâm sàng
>>Trước: 11.2 Bạn là bác sĩ của chính mình
Rõ ràng, không ai lường trước được điều này, ngoại trừ năm 1998, trong ấn bản đầu tiên của cuốn sách "Bí mật vượt thời gian về sức khỏe và trẻ hóa", tôi đã viết rất nhiều về gian lận tiềm ẩn trong các nghiên cứu dược phẩm liên quan đến nhóm giả dược. Tuy nhiên, những phát hiện mới sau đây do các nhà nghiên cứu tại Đại học California công bố trên tạp chí Annals of Internal Medicine số tháng 10 năm 2010 đã đưa gian lận khoa học do các công ty dược phẩm thực hiện lên một tầm cao mới.
Nghiên cứu được tài trợ bởi Quỹ 3929 - Lý luận Y khoa của Đại học California, về cơ bản đã tiết lộ rằng hầu hết các thử nghiệm lâm sàng so sánh thuốc dược phẩm với viên giả dược đều không hợp lệ về mặt khoa học vì giả dược được sử dụng trong các nghiên cứu này hoàn toàn không phải là giả dược hợp lệ. Nghiên cứu có tên "What's in Placebos: Who Knows? Analysis of Randomized, Controlled Trials" do Tiến sĩ, Bác sĩ Beatrice A. Golomb dẫn đầu. Vì giả dược được sử dụng trong các nghiên cứu này hoàn toàn không phải là giả dược, điều này khiến các nghiên cứu trở nên không hợp lệ về mặt khoa học.
Lập luận cơ bản của nghiên cứu tại Đại học California nêu rõ: "Không có quy định nào chi phối việc thành phần giả dược. Thành phần của giả dược có thể ảnh hưởng đến kết quả thử nghiệm và giá trị báo cáo."
Trong nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã xem xét 167 thử nghiệm có đối chứng giả dược được công bố trên các tạp chí y khoa được bình duyệt vào năm 2008 và 2009 và phát hiện ra rằng các nhà nghiên cứu chính của 92 phần trăm các thử nghiệm đó thậm chí không bao giờ tiết lộ các thành phần của viên thuốc giả dược của họ.
Tại sao điều này lại quan trọng đến vậy? Bởi vì cách duy nhất để xác định hiệu quả của thuốc là so sánh nó với một chất trơ, không hoạt động (giả dược). Vì không có quy định nào của FDA về thành phần giả dược (tôi tự hỏi tại sao), nên theo tuyên bố nền tảng của nghiên cứu, "thành phần của giả dược có thể ảnh hưởng đến kết quả thử nghiệm và giá trị báo cáo". Nói cách khác, loại giả dược được sử dụng trong thử nghiệm lâm sàng có thể quyết định khá nhiều đến "hiệu quả" của loại thuốc đang được đề cập.
Thực ra, không có giả dược trơ. Mỗi chất, dù là bột hay lỏng, đều có tác dụng nhất định lên cơ thể. Ví dụ, đường đơn làm tăng lượng đường trong máu gần như ngay lập tức. Vì vậy, trong một thử nghiệm lâm sàng được thực hiện trên bệnh nhân tiểu đường, nhóm giả dược được dùng viên đường trơ dĩ nhiên sẽ có kết quả kém hơn nhiều so với nhóm dùng thuốc thật, bao gồm các tác nhân hạ đường huyết được cho là có tác dụng hạ đường huyết. Không cần nhiều bằng chứng để chứng minh loại thuốc này hiệu quả trong việc giúp bệnh nhân tiểu đường kiểm soát đường huyết.
Tương tự như vậy, có những loại giả dược được sử dụng trong các nghiên cứu về tim.
Những viên nang giả dược "trơ" này có thể chứa dầu hydro hóa một phần chứa axit béo chuyển hóa, vốn được biết là gây tổn thương nghiêm trọng cho động mạch vành và tim. Đương nhiên, một loại thuốc tim hoàn toàn vô dụng sẽ chiến thắng, đánh bại giả dược một cách ngoạn mục.
Theo nghiên cứu của Đại học California, chỉ 8% các thử nghiệm lâm sàng công bố danh sách các thành phần giả dược. Việc thiếu quy định của FDA cho phép các công ty dược phẩm tạo ra một loại giả dược hoàn hảo, khiến giả dược trông kém hiệu quả một cách lố bịch khi so sánh với thuốc thật. FDA yêu cầu một loại thuốc chỉ cần hiệu quả hơn giả dược 5% là được cấp phép. Điều này dễ dàng đạt được bằng cách chọn một loại giả dược khiến thuốc được nghiên cứu trông có vẻ tốt.
Hầu hết các thử nghiệm thuốc đều được tài trợ bởi các tập đoàn dược phẩm lớn và được tiến hành bởi các nhà khoa học do họ tài trợ. Bằng cách không quản lý giả dược, FDA tạo cho các công ty dược một kẽ hở hợp pháp để tiến hành các thử nghiệm thuốc với kết quả đã được định trước. Trở ngại tiềm ẩn duy nhất mà họ có thể gặp phải là khi thuốc được thử nghiệm có độc tính cực cao đến mức gây hại nghiêm trọng cho một số lượng lớn đối tượng, nhiều hơn so với nhóm dùng giả dược. Điều này đã được chứng minh trong một số thử nghiệm về bệnh tiểu đường và viêm khớp, trong đó quá nhiều đối tượng đã tử vong do sử dụng thuốc thật.
Điểm mấu chốt là giả dược thường được cung cấp bởi chính các công ty tài trợ cho các thử nghiệm lâm sàng, nghĩa là, bởi những người sẽ được hưởng lợi chủ yếu từ kết quả thành công. Các nhà sản xuất thuốc toàn quyền quyết định loại thuốc giả dược nào họ cần để làm giả các thử nghiệm lâm sàng và biến khoản đầu tư ban đầu thành nguồn thu nhập khổng lồ.
Trớ trêu thay, hoạt động hoàn toàn phi khoa học, gây hiểu lầm và phạm tội này lại được coi là "tiêu chuẩn vàng của bằng chứng khoa học".
Các nhà khoa học y khoa lên án và chế giễu các phương pháp y học thay thế hoặc y học tích hợp, chẳng hạn như vi lượng đồng căn, Ayurveda, y học Trung Quốc, châm cứu, v.v., thường tuyên bố phương pháp nghiên cứu khoa học nêu trên (sử dụng giả dược thân thiện với kết quả) là phương pháp nghiên cứu duy nhất hợp lệ, trong khi lại là những kẻ vi phạm nghiêm trọng nhất đối với nghiên cứu khoa học khách quan. Hóa ra, trò lừa bịp trắng trợn nhất từng được thực hiện bởi các nhà khoa học đứng sau những thử nghiệm này, và các bác sĩ cùng các cơ quan y tế sử dụng kết quả này để biện minh cho các phương pháp điều trị y tế vô dụng (chưa được chứng minh) và có khả năng gây hại của họ. Y học đã trở thành trò lừa đảo lớn nhất mà nhân loại từng chứng kiến.
"Bằng chứng khoa học" thường được trích dẫn dựa trên sự thao túng khoa học hoặc gian lận giả dược. Nếu giả dược được sử dụng trong một thử nghiệm không phải là giả dược thực sự mà là một chất có thể thay đổi kết quả theo hướng có lợi cho một loại thuốc đã được nghiên cứu, thì "bằng chứng khoa học" đó chỉ là gian lận. Khi bạn đến gặp bác sĩ và ông ta kê đơn thuốc cho bạn với lời khẳng định rằng các nghiên cứu đã chứng minh nó hiệu quả đối với chứng rối loạn cụ thể của bạn, ông ta đã cố ý hoặc vô tình phạm tội gian lận. Ông ta thực tế đang bán cho bạn một loại dầu rắn được sản xuất bởi một nhà sản xuất thuốc tham nhũng và được dán nhãn là thuốc. Như Tạp chí Y học New England và WHO đã từng thừa nhận, 85-90% những gì được cung cấp tại các bệnh viện hoặc phòng khám bác sĩ hiện nay không được chứng minh bằng bằng chứng khoa học.
Chỉ nói rằng một chất cụ thể - chẳng hạn như đường, dầu, hóa chất tổng hợp, nước có florua, canxi cacbonat (bụi phấn), hoặc bất kỳ một trong hàng chục loại khoáng chất và hóa chất kim loại khác nhau - là trơ và có thể được sử dụng làm giả dược thì chưa đủ để biến nó thành trơ. Đó là suy nghĩ viển vông. Nhưng suy nghĩ viển vông chính xác là điều mà các nhà nghiên cứu thử nghiệm làm khi họ so sánh một loại thuốc với một loại giả dược "khoa học" như vậy. Họ không chỉ nhận được sự chấp thuận hoàn toàn cho việc lạm dụng giả dược như vậy từ các đồng nghiệp của mình, Cục Quản lý Dược phẩm Liên bang, mà như một phần thưởng, "công trình" của họ còn được công bố trên các tạp chí y khoa uy tín.
Tiến sĩ Beatric Golomb cho biết, "Chúng ta chỉ có thể hy vọng rằng điều này không ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc điều trị y tế một cách có hệ thống." Hàng triệu người dùng thuốc kê đơn hàng ngày chưa bao giờ được chứng minh là hiệu quả hơn hy vọng hoặc niềm tin, vốn là sức mạnh đằng sau viên thuốc giả dược. Tuy nhiên, những loại thuốc này có thể gây ra tác dụng phụ tàn khốc và có khả năng gây tử vong, trong khi niềm tin và hy vọng không gây hại. Chỉ riêng tại Hoa Kỳ, hơn 100.000 người tử vong mỗi năm do tác dụng phụ liên quan đến thuốc.
Các nhà sản xuất thuốc thường rất vô đạo đức, và việc có bao nhiêu người chết dưới tay họ chẳng liên quan gì đến họ. Họ chỉ chịu trách nhiệm trước các cổ đông, và miễn là họ kiếm được nhiều tiền, thì đó là tất cả những gì họ quan tâm. Nếu họ chọn một loại giả dược gây hại cho đối tượng, thử nghiệm sẽ mang lại kết quả "tích cực" tốt hơn và nhanh hơn.
Ví dụ, trong các thử nghiệm thuốc điều trị AIDS mới, các nhà nghiên cứu sử dụng lactose làm giả dược được ưu tiên. Họ biết rõ rằng hầu hết bệnh nhân AIDS đều không dung nạp lactose. Giả dược này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ miễn dịch của họ, vốn đã bị suy yếu nghiêm trọng ở bệnh nhân AIDS. Việc này giống như tiến hành một thử nghiệm lâm sàng trên một loại thuốc ức chế hormone não liên quan đến chứng nghiện rượu, trong đó các nhà nghiên cứu phát những viên thuốc giả dược có chứa cồn. FDA chưa có bất kỳ nỗ lực nào để ngăn chặn hành vi phi đạo đức này.
Đôi khi, các nhà nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng bị vướng vào những âm mưu phi đạo đức tàn nhẫn của họ, chẳng hạn như Tiến sĩ Scott Ruben nổi tiếng, người được cho là một trong những nhà nghiên cứu giỏi nhất trong số các đồng nghiệp của mình. Mặc dù ông ta đã làm giả ít nhất 21 thử nghiệm lâm sàng và công bố kết quả giả mạo trên các tạp chí y khoa uy tín nhất, các bác sĩ vẫn kê hàng triệu đơn thuốc cho những loại thuốc chưa được chứng minh này, hay đúng hơn là dầu rắn. Việc những loại thuốc này không giúp ích cho ai cũng không quan trọng, miễn là chúng tốt cho nền kinh tế. Những gã khổng lồ dược phẩm đơn giản là quá lớn để sụp đổ. Hãy tưởng tượng nếu khoa học rác rưởi hỗ trợ ngành công nghiệp dược phẩm bị cấm, sẽ khó có loại thuốc nào trên thị trường, và phần lớn ngành công nghiệp y tế sẽ sụp đổ.
>>Tiếp: 11.4 Xin một chút nắng!
11.2 Bạn là bác sĩ của chính mình
>>Trước: 11.1 Tâm trí vượt qua vật chất
Y học Đức mới và những cách nhìn nhận tương tự về bệnh tật đã hoàn toàn thay đổi cách chúng ta định nghĩa sức khỏe. Đáng tiếc là chúng ta đã quá xa rời bản chất thực sự của mình, và "y học hiện đại" đã dụ dỗ chúng ta quá nhiều thông qua tuyên truyền và quảng cáo đến mức chúng ta đánh giá sức khỏe bằng các xét nghiệm, chụp chiếu và sinh thiết.
Bạn không cần phải đánh giá sức khỏe của mình bằng một loạt các chỉ số huyết áp, lượng cholesterol LDL hoặc HDL trong máu hay lượng đường trong máu. Cách lành mạnh nhất để đánh giá sức khỏe và hạnh phúc của bạn là đánh giá chất lượng cuộc sống. Điều này có nghĩa là tôn trọng cơ thể, chăm sóc nó đúng cách, hít thở dễ dàng, ngủ và ăn uống đầy đủ, dành thời gian dưới ánh nắng mặt trời và thiên nhiên, chơi đùa với trẻ em, và tận hưởng cảm giác tràn đầy năng lượng, sức sống và năng lượng khi cơ thể và tâm trí bạn "hạnh phúc" (Để biết thêm về cách trẻ hóa bản thân bằng những lựa chọn lối sống lành mạnh, bạn có thể muốn đọc Bí quy.ết trẻ hóa và sức khỏe vượt thời gian - Timeless Secrets of Rejuvenation and Health).
Giữ gìn sức khỏe tốt cũng có nghĩa là tận hưởng việc đi dạo trong công viên, tận hưởng thời gian vui vẻ bên gia đình và bạn bè, chơi đùa với thú cưng, đạt được mục tiêu và hạnh phúc trong công việc cũng như mọi việc khác. Do đó, sức khỏe tốt có nghĩa là duy trì sự cân bằng trong mọi khía cạnh của cuộc sống - trong thói quen, sự lựa chọn, thái độ, mong muốn và khát khao của bạn, v.v. trong khi tạo ra mối liên hệ thay đổi cuộc sống giữa tâm trí và cơ thể.
Tôi có thể nói với bạn điều này: Khi bạn đạt được tất cả hoặc thậm chí hầu hết những điều trên, bạn sẽ trực giác biết rằng bạn đang đi đúng hướng. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi nói bạn có phải là người chữa bệnh giỏi nhất cho chính mình không? Rằng bác sĩ của bạn thực sự ở bên trong bạn? Rằng sự chữa lành tốt nhất và lâu dài nhất đến từ bên trong? Học hỏi tin vào trực giác của mình còn hơn bất kỳ bài kiểm tra huyết áp hay máy chạy bộ nào.
Tóm lại, điều này phụ thuộc vào năng lượng tích cực hoặc tiêu cực mà bạn trải nghiệm và tỏa ra. Chính năng lượng này - được chuyển hóa thành những phản ứng hóa học tích cực hoặc tiêu cực rõ ràng trong cơ thể bạn - có thể chữa lành và duy trì sức khỏe, hoặc khiến bạn ốm. Khi đó, việc ốm đau mang đến cho bạn cơ hội trở lại trạng thái cân bằng và hài hòa.
Lần cuối cùng bạn cảm thấy biết ơn những gì mình đang có là khi nào? Nhiều người chỉ đơn giản là quá bận tâm đến những gì mình không có. Thật dễ dàng để cảm thấy tự thương hại bản thân, hoặc một cảm giác tham vọng quá mức, hoặc muốn "đạt được" để bù đắp cho những gì mình không có. Vậy còn những gì bạn đang có thì sao? Tuy nhiên, khi bạn tập trung lại suy nghĩ vào những điều tích cực và lòng biết ơn, về cơ bản, bạn sẽ điều chỉnh lại năng lượng của mình. Và đó chính là sức khỏe tốt.
Sức khỏe đồng nghĩa với sự trọn vẹn. Bằng cách chấp nhận những gì đang có với lòng biết ơn, bất kể tích cực hay tiêu cực, bạn sẽ trở nên trọn vẹn trở lại, và quá trình chữa lành có thể diễn ra một cách tự nhiên. Ngược lại, việc chống đối hay kháng cự bất cứ điều gì, dù là người khác hay bệnh tật, đều khiến bạn sợ hãi và bị chia cắt. Đó là một tình thế khó khăn nếu bạn muốn cơ thể được chữa lành và trở nên trọn vẹn trở lại. Việc được chẩn đoán mắc bệnh ung thư có thể khiến bạn suy sụp, mất ngủ, chán ăn, sụt cân và mất niềm vui sống. Nó có thể khiến bạn sợ hãi cái chết đến mức nó có thể nuốt chửng bạn (gọi là suy kiệt) và giết chết bạn. Ung thư không làm được điều này, nhưng chẩn đoán ung thư có thể dễ dàng làm được điều đó. Việc chắc chắn rằng mình mắc ung thư sẽ sớm bị thay thế bằng nỗi lo lắng về những gì nó sẽ gây ra cho bạn. Một lần nữa, thật khó để chữa lành khi cảm thấy bị đe dọa.
Than ôi, hầu hết chúng ta, bị tẩy não bởi bác sĩ, những thiết bị và phép thuật giả tạo của họ, đã đặt trung tâm kiểm soát ra khỏi bản thân và vào tay bác sĩ và ngành công nghiệp dược phẩm. Việc giao phó quyền lực của mình cho thuốc men, vắc-xin, hay những người mặc áo khoác trắng sẽ cướp đi sức mạnh mà cơ thể cần để tự chữa lành. Nhưng hãy dừng lại một chút và suy ngẫm về vô số phép màu đang diễn ra bên trong cơ thể bạn, dù bạn có ý thức được chúng hay không.
Ví dụ, khi bạn ngủ, hàng triệu tế bào trong cơ thể bạn đang được sửa chữa; các chất độc được đưa ra khỏi các mô thông qua hệ bạch huyết và máu đến gan để được xử lý và chuẩn bị bài tiết; thức ăn bạn ăn vào bữa trưa và bữa tối đang trải qua quá trình tiêu hóa cực kỳ phức tạp; và da mới đang phát triển trên khuỷu tay mà bạn đã chạm vào giá sách - tất cả những điều này diễn ra mà bạn thậm chí không hề hay biết.
Về cơ bản, cơ thể thực hiện các quá trình chữa lành, dù bạn có nhận thức được hay không. Đó là bởi vì cơ thể có một xu hướng tự nhiên, bẩm sinh và tự động là tự chữa lành, để trở nên trọn vẹn và thống nhất (thay vì bị phân mảnh). Như tôi đã giải thích trước đó (Xem Chương 1: Huyền thoại về Vắc-xin), ngay cả bệnh tật cũng là một quá trình chữa lành. Việc thừa nhận điều này, nhận thức được những quá trình này và biết ơn chúng là một phần của việc trở nên khỏe mạnh và duy trì sức khỏe.
Thay vào đó, chúng ta lại tấn công cơ thể bằng rất nhiều cách, cản trở sức khỏe và quá trình chữa lành - phụ thuộc quá nhiều vào thực phẩm chế biến sẵn, kích thích bản thân quá mức (ai bảo làm nhiều việc cùng lúc là một đức tính chứ?) theo rất nhiều cách, và trở thành những kẻ nghiện thuốc bất đắc dĩ. Vậy mà cơ thể chúng ta vẫn kiên cường, chịu đựng sự tấn công hàng ngày trong im lặng nhẫn nại. Chúng ta thật vô ơn!
Nếu bạn lắng nghe cơ thể, nó sẽ cho bạn biết nó cần gì. Những gì chúng ta thường gọi là bệnh tật - huyết áp cao, hen suyễn, tiểu đường, béo phì và dị ứng - thực chất là những dấu hiệu cho thấy cơ thể đang mất cân bằng và cần được cân bằng lại thông qua chế độ ăn uống, bù nước, tắm nắng hoặc thay đổi thói quen ngủ.
Nhưng khi bị bệnh, hầu hết mọi người đều tìm đến thuốc viên và các công thức hóa học khác. Những loại thuốc này, thuốc giảm đau và phẫu thuật đều có tác dụng ngược lại. Chúng dập tắt các triệu chứng (thực chất là dấu hiệu cho thấy cơ thể đang trong quá trình chữa lành), hoặc khiến bạn cảm thấy bất lực khi cắt bỏ một bộ phận cơ thể. Hầu hết các phương pháp điều trị hiện đại chỉ khiến bạn lún sâu hơn vào tình trạng bệnh tật và vô hiệu hóa khả năng tự chữa lành. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì các nghiên cứu đã công bố cho thấy 90% các phương pháp này không hiệu quả và không được chứng minh bằng bằng chứng khoa học. Mặt khác, có nhiều cách tự nhiên để thanh lọc và cân bằng lại cơ thể cũng như đảo ngược các tình trạng dường như không thể chữa khỏi như ung thư và các bệnh tự miễn.
Do đó, cốt lõi của quá trình tự chữa lành này là niềm tin rằng cơ thể bạn có thể trở lại trạng thái hoạt động tối ưu và sẽ không làm bạn thất vọng. Tất cả những gì bạn cần làm là bật nó lên. Bằng chứng ủng hộ cho quá trình tự chữa lành đến từ một công cụ khác thường được các nhà nghiên cứu khoa học sử dụng. Chỉ có điều, họ dường như đã bỏ lỡ điểm chính! Nó được gọi là 'hiệu ứng giả dược'. Như đã thảo luận trước đó, giả dược là một 'viên thuốc đường' được đưa cho một nhóm đối tượng trong một thí nghiệm trong khi một nhóm khác, nhóm thử nghiệm, được dùng thuốc 'thật' đang được thử nghiệm. Giả định là vì cả hai nhóm đều được cho dùng một viên thuốc, nên cả hai nhóm đều được đối xử bình đẳng và do đó bất kỳ sự khác biệt nào có thể phát sinh trong nhóm thử nghiệm sẽ là do 'thuốc thật' đã được dùng.
Nhưng 'hiệu ứng giả dược' là hiện tượng mà những cá nhân chỉ được cho một viên thuốc đường nhưng lại có dấu hiệu khỏi bệnh chỉ vì họ tin rằng họ đang được điều trị và phương pháp điều trị đó sẽ chữa khỏi bệnh cho họ.
Bây giờ, hãy cẩn thận đừng bỏ lỡ điểm mấu chốt - đó là niềm tin của bệnh nhân rằng thuốc (hoặc giả dược), một ca phẫu thuật hoặc một chương trình điều trị sẽ làm giảm đau hoặc chữa khỏi bệnh. Niềm tin sâu sắc hoặc cảm giác chắc chắn về sự hồi phục là tất cả những gì người ta có để bắt đầu một phản ứng chữa lành. Dựa trên mối liên hệ mạnh mẽ giữa tâm trí và cơ thể, người ta giải phóng các opioid tự nhiên (thuốc giảm đau dạng morphine) từ các vùng não được kích hoạt bởi một số quá trình suy nghĩ nhất định. Các chất dẫn truyền thần kinh tương ứng để giảm đau được gọi là endorphin. Endorphin mạnh hơn heroin hoặc morphine khoảng 40.000 lần.
Một bệnh nhân phát triển khối u ung thư có thể bắt đầu sản xuất thêm Interleukin II và Interferon để tiêu diệt các tế bào khối u. Là sản phẩm của DNA, cơ thể có thể sản xuất các loại thuốc chống ung thư này trong mọi tế bào và tiêu diệt ung thư ngay lập tức (tự thoái lui), miễn là người bệnh biết cách kích hoạt sự giải phóng chúng. Các yếu tố kích hoạt là niềm tin, sự tự tin và hạnh phúc chính những tác nhân gây ra hiệu ứng giả dược.
Cơ thể bạn có khả năng sản xuất mọi loại thuốc mà ngành công nghiệp dược phẩm có thể sản xuất. Thuốc tổng hợp chỉ "có tác dụng" vì các tế bào trong cơ thể bạn có thụ thể tiếp nhận một số hóa chất có trong thuốc. Điều này có nghĩa là cơ thể cũng có khả năng sản xuất các hóa chất này. Nếu không, các thụ thể này đã không tồn tại.
Cơ thể biết cách tạo ra chúng với độ chính xác cao nhất, với liều lượng chính xác và thời điểm hoàn hảo. Thuốc tự thân của cơ thể không tốn kém gì và không có tác dụng phụ có hại. Ngược lại, thuốc dược phẩm rất đắt tiền và kém hiệu quả hoặc chính xác hơn nhiều. Hơn nữa, tác dụng phụ mà chúng gây ra thường nghiêm trọng hơn so với bệnh mà chúng được sử dụng để điều trị.
Điều tệ hơn nữa là ước tính khoảng 35-45% đơn thuốc không có tác dụng cụ thể nào đối với căn bệnh mà chúng được kê đơn. Tóm lại, kết quả tích cực phần lớn là do phản ứng tự chữa lành của cơ thể hoặc do hiệu ứng giả dược gây ra. Chúng không liên quan gì đến bản thân phương pháp điều trị y tế.
Hiệu ứng giả dược thường xuất hiện trong một tình huống khác. Bác sĩ cũng có khả năng truyền cảm hứng cho bệnh nhân, giúp họ tin rằng họ đang nhận được phương pháp điều trị phù hợp và tốt nhất cho bệnh tình của mình. Kỳ vọng tìm thấy sự thuyên giảm có thể là động lực chính khiến bệnh nhân đến gặp bác sĩ. Hơn nữa, bác sĩ cũng có thể tin rằng đơn thuốc của mình sẽ mang lại hiệu quả mong muốn, tức là làm giảm các triệu chứng của bệnh nhân.
Niềm tin kết hợp của bác sĩ vào phương pháp điều trị của mình và sự tin tưởng, tín nhiệm của bệnh nhân dành cho bác sĩ có thể tạo ra một "liều thuốc" có khả năng biến ngay cả một phương pháp điều trị vô ích hoặc một loại thuốc không đặc hiệu thành một động lực chữa lành. Điều này hoàn toàn có thể dẫn đến sự cải thiện rõ rệt tình trạng bệnh được điều trị, và trong một số trường hợp, là chữa khỏi hoàn toàn. Ở đây, "liều thuốc" không gì khác ngoài hiệu ứng giả dược.
Nếu bác sĩ tin chắc rằng việc điều trị bệnh của bệnh nhân sẽ thành công, thì cảm nhận của bệnh nhân về sự tự tin của bác sĩ sẽ có nhiều khả năng tạo ra phản ứng giả dược hơn là khi bác sĩ nghi ngờ về phương pháp điều trị của mình. Nói cách khác, nếu một bác sĩ có thể truyền cảm hứng cho bệnh nhân tin rằng bệnh tình của họ sẽ cải thiện, thì bác sĩ đã làm tốt hơn nhiều so với bất kỳ phương pháp điều trị phức tạp nào.
Đó là lý do tại sao một bác sĩ ấm áp, trung thực và lạc quan, người lắng nghe trực giác của mình và cảm thấy cả lòng trắc ẩn và tình yêu thương đối với đồng loại không chỉ được bệnh nhân ưa chuộng mà còn rất có thể là một người chữa bệnh hiệu quả, bất kể loại thuốc nào họ kê cho căn bệnh. Chúng tôi thường gọi đó là 'cách cư xử bên giường bệnh' này.
Xu hướng hiện nay của ngày càng nhiều người tìm đến các bác sĩ trị liệu thay thế không hẳn dựa trên những gì họ mang lại cho bệnh nhân. Thay vào đó, vấn đề nằm ở cách họ khiến bệnh nhân cảm thấy như thế nào. Việc các nhà trị liệu thay thế chủ yếu sử dụng các phương pháp và hợp chất tự nhiên trong quá trình điều trị khiến liệu pháp tự nhiên được bệnh nhân chấp nhận hơn so với các phương pháp điều trị y khoa. Điều này cũng khiến phương pháp của họ nhân văn hơn và có khả năng hiệu quả hơn so với giả dược.
Tất cả chúng ta đều có bản năng tự nhiên được lập trình sẵn để biết điều gì tốt và hữu ích cho mình, mặc dù nhiều người đã thành công trong việc chế ngự nó. Đây có thể là một lý do tại sao các phương pháp chữa bệnh tự nhiên lại hiệu quả đến vậy. Đó là hiệu ứng chữa lành ở ruột được tạo ra khi chúng ta ăn thực phẩm tươi, nguyên chất, thảo mộc chữa bệnh và các phương pháp tự nhiên khác. Một loại thảo mộc từ dãy núi Himalaya hay một miếng gừng có khả năng kích hoạt phản ứng giả dược trong chúng ta cao hơn chất béo tổng hợp Olestra hay một loại thuốc dược phẩm dùng để hạ huyết áp. Những điều tự nhiên vốn dĩ dễ chịu cho cơ thể và tâm trí. Không có gì ngạc nhiên khi một bác sĩ trị liệu thiên nhiên đã trở thành biểu tượng của phương pháp chữa bệnh tự nhiên.
Do đó, chìa khóa để chữa bệnh chính là đức tin, sự tin tưởng và niềm tin rằng mình sẽ khỏe mạnh, và nếu bệnh tật tấn công, đây chính là cách tốt nhất và hiệu quả nhất để cơ thể khôi phục sự cân bằng, sức khỏe và sức sống.
>>Tiếp: 11.3 Gian lận giả dược làm mất hiệu lực hầu hết các thử nghiệm lâm sàng
11.1 Tâm trí vượt qua vật chất
>>Trước: 11. Chương 9 - Toàn bộ sự thật
Bệnh tật là sản phẩm của sự phân mảnh bản ngã, điều xảy ra khi cơ thể không hoạt động như một cỗ máy tinh vi mà nó được thiết kế để trở thành. Nó xảy ra khi chúng ta không hoạt động ở mức tối ưu, điều này chắc chắn sẽ khiến một cơ quan hoặc hệ thống bị trục trặc. Lý do là để duy trì sức khỏe, cơ thể cần duy trì sự thống nhất và hài hòa. Hãy xem xét điều này theo một cách khác bằng cách tập trung vào "sự cân bằng". Mọi hệ sinh thái, tất cả các hệ sinh thái nói chung, sự sống và bản thân vũ trụ, đều cần một trạng thái cân bằng hoặc cân bằng năng lượng nhất định để hoạt động tối ưu.
Do đó, khi cơ thể và tâm trí ở trạng thái cân bằng và hợp nhất, bạn đang ở trạng thái sức khỏe tốt. Bạn cũng trải nghiệm cảm giác bình yên hoặc thanh thản nội tâm. Hầu hết mọi người không trải nghiệm cảm giác hài hòa và hợp nhất hoàn hảo, nhưng tâm trí, cơ thể và năng lượng của họ hoạt động khá thống nhất. Chúng ta gọi những người như vậy là "cân bằng", "thực tế" và "đứng vững", và chúng ta thích ở bên họ đơn giản vì họ toát lên vẻ bình thản, dễ chịu. Khả năng cao là họ cũng ở trạng thái sức khỏe tốt và duy trì sự cân bằng về tinh thần và thể chất bất chấp những khó khăn của cuộc sống hiện đại và vô số công việc họ phải thực hiện.
Mặt khác, có những người sống trong trạng thái hỗn loạn triền miên và năng lượng của họ luôn trong tình trạng hỗn loạn. Chúng ta gọi những người như vậy là "hỗn loạn" hoặc "cực đoan". Nhưng sự hỗn loạn cũng có thể biểu hiện theo những cách tinh tế.
Nó không nhất thiết phải thể hiện dưới dạng một tâm trí hỗn loạn hay những con người mà chúng ta dán nhãn là "vô tổ chức". Hãy nhớ rằng, tiêu chí cho sự hỗn loạn được sử dụng ở đây là một tâm trí đang xung đột và phân mảnh. Cơ thể sau đó sẽ sử dụng tất cả năng lượng có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau để duy trì sự thống nhất và toàn vẹn của tâm trí.
Khi cơ thể không thể duy trì được trạng thái cân bằng, một thứ gì đó sẽ bị phá vỡ. Đây là lúc bệnh tật biểu hiện, đầu tiên là các triệu chứng như mất ngủ, sụt cân hoặc tăng cân bất thường, rụng tóc, tay ướt đẫm mồ hôi, phát ban trên da và thở nông. Đây là trạng thái mà cơ thể tiêu hao và làm cạn kiệt nguồn dự trữ vật chất của cơ thể, vốn được sử dụng để giải quyết xung đột và ứng phó với các tình huống căng thẳng. Sự suy giảm năng lượng liên tục làm thay đổi các quá trình trao đổi chất và sinh lý bình thường.
Một lượng lớn năng lượng tinh thần được sử dụng trong quá trình này, đó là lý do tại sao một số người dường như bị ám ảnh bởi một số vấn đề hiện tại, trong khi những người khác lại trở nên uể oải và chán nản. Lưu ý, quá trình tương tự cũng diễn ra ở cấp độ tiềm thức. Chính tại đây, những xung đột trong quá khứ tiếp tục tồn tại và gây ra hậu quả mà không hề có dấu vết ý thức!
Ở mức độ thường nhật hơn, bạn có nhận thấy rằng khi căng thẳng, bạn chán ăn, bồn chồn và mất ngủ không? Bạn cũng bận tâm đến bất cứ điều gì đang khiến bạn căng thẳng, có thể là một nhiệm vụ khó khăn trong công việc, một lựa chọn khó khăn trong cuộc sống, xung đột với con cái hoặc lo lắng về tài chính.
Khi xung đột hoặc khủng hoảng được giải quyết hoặc qua đi, bạn thực sự bắt đầu "thở phào nhẹ nhõm". Điều này không chỉ là một phép ẩn dụ. Quá trình hô hấp của bạn trở lại bình thường, tuần hoàn máu được cải thiện và bạn cảm thấy tràn đầy năng lượng hơn. Điều này xảy ra bởi vì năng lượng dư thừa mà tâm trí và cơ thể đã khai thác để tập trung vào vấn đề được giải phóng trở lại các quá trình cơ thể mà chúng đã bị rút ra, và sự cân bằng được khôi phục.
Chính trong bối cảnh này mà tôi thấy Y học Đức/Y học Mới Đức (GNM) của Tiến sĩ Ryke Geerd Hamer mang tính cách mạng. Theo Tiến sĩ Hamer, vi khuẩn và các tác nhân gây bệnh khác không gây bệnh; mà là xung đột tâm lý. Mặt khác, vi trùng chỉ đóng vai trò trong giai đoạn chữa lành bệnh.
Nghe có vẻ khó tin, nhưng nghiên cứu của Tiến sĩ Hamer đã được chứng minh bằng khoa học và cung cấp thêm bằng chứng về mối liên hệ giữa tâm trí và cơ thể cũng như vai trò quan trọng của nhận thức và xung đột của chúng ta trong sự phát triển của bệnh tật, bao gồm cả ung thư.
Theo Tiến sĩ Hamer, người có hệ thống y học được giải thích bằng Năm định luật sinh học, mọi xung đột hoặc 'cú sốc xung đột' đều dẫn đến sự hình thành các vòng tròn đồng tâm hoặc các vòng tròn ở các vùng cụ thể của não, gây ra một "tổn thương" có thể nhìn thấy trên phim chụp CT. Tại thời điểm xảy ra cú sốc, tập hợp các tế bào não ở vùng bị ảnh hưởng sẽ truyền cú sốc đến cơ quan cụ thể mà nó kiểm soát chức năng. Theo Tiến sĩ Hamer, đây chính là nguồn gốc của bệnh tật. Ông chỉ ra rằng con người là sản phẩm của quá trình tiến hóa, và do đó, ông cho rằng não bộ diễn giải xung đột và cú sốc theo cách tiến hóa, vì tất cả động vật đều được lập trình di truyền để phản ứng với những kích thích này theo những cách thức cố định và có thể dự đoán được để phục vụ mục đích sinh tồn.
Do đó, theo Tiến sĩ Hamer, xét về mặt tiến hóa, tất cả các loại xung đột chỉ có thể được phân loại thành một vài loại. Và những loại này liên quan đến các vùng não cụ thể. Tiến sĩ Hamer chia não thành hai phần - "não cũ" (thân não và tiểu não), liên quan đến các vấn đề sinh tồn cơ bản liên quan đến hô hấp, ăn uống hoặc sinh sản; và "não mới" (đại não), liên quan đến các vấn đề phức tạp hơn như xung đột lãnh thổ, xung đột chia cắt, xung đột bản sắc và xung đột tự hạ thấp giá trị bản thân.
Vì mỗi loại xung đột liên quan đến các vùng cụ thể của não và mỗi vùng não lại liên kết với một nhóm cơ quan và hệ thống cụ thể, nên bản chất của xung đột tâm lý hoặc cú sốc sẽ tác động lên một cơ quan cụ thể trong cơ thể. Theo Tiến sĩ Hamer, nếu não cũ bị ảnh hưởng, các cơ quan và mô bị ảnh hưởng sẽ là những cơ quan và mô do não cũ kiểm soát, bao gồm phổi, gan, đại tràng, tuyến tiền liệt, tử cung, da corium, màng phổi, màng bụng, màng ngoài tim, tuyến vú, v.v.
Mặt khác, các cơ quan và mô được não mới kiểm soát bao gồm buồng trứng, tinh hoàn, xương, hạch bạch huyết, biểu bì, niêm mạc cổ tử cung, ống phế quản, mạch vành, ống dẫn sữa, v.v.
Một lần nữa, liệu cơ quan có phản ứng bằng cách tăng sinh tế bào (khối u) hay phá hủy mô (loét, tổn thương, v.v.) hay rối loạn chức năng cơ quan hay không phụ thuộc vào việc vùng não cũ hay mới bị ảnh hưởng và điều này lại phụ thuộc vào bản chất của xung đột.
Do đó, theo Tiến sĩ Hamer, xung đột vừa mang tính tâm lý vừa mang tính sinh học, và chính tại điểm giao thoa của hai cấp độ này mà bệnh tật bắt nguồn. Nếu đảo ngược lại, ta có thể nói rằng bệnh tật là do xung đột gây ra, tác động đến cả cấp độ vật lý và sinh học, và phải được hiểu trong bối cảnh tiến hóa.
Động vật không có chức năng trí tuệ 'cao cấp' và xung đột tâm lý cũng như cú sốc sinh học của chúng luôn liên quan đến việc mất lãnh thổ, mất tổ hoặc mất con, tách khỏi bạn tình hoặc đàn, chết đói đột ngột hoặc tình huống chiến đấu-bỏ chạy.
Tất cả những chấn thương tâm lý, lo lắng, trầm cảm và bệnh tật của chúng ta đều có thể được phân loại thành những phạm trù có vẻ đơn giản này. Ví dụ, mất nhà thế chấp hoặc ngoại tình liên quan đến lãnh thổ và sự chia ly với bạn đời như trong trường hợp phản bội hoặc cái chết của người thân yêu.
Tất nhiên, những gì gây chấn thương cho một cá nhân không nhất thiết cũng gây chấn thương cho người khác. Do đó, xung đột mang tính chủ quan cao và phụ thuộc vào tính khí, cách nuôi dạy, cơ chế đối phó, nhận thức, thái độ và giá trị, đạo đức, tình trạng sức khỏe thể chất và khuynh hướng di truyền của mỗi người.
Nhưng theo Tiến sĩ Hamer, một khi xung đột hoặc cú sốc xảy ra, nó sẽ tác động theo cách nhất định và được định trước lên cơ thể.
Theo GNM, chữa lành hoặc phục hồi là giai đoạn thứ hai của bệnh, khi mô, cơ quan hoặc hệ thống bị ảnh hưởng đảo ngược các quá trình do cú sốc ban đầu gây ra. Do đó, trong trường hợp ung thư, liên quan đến sự tăng sinh tế bào (một cơ chế bảo vệ giúp cơ quan bị ảnh hưởng thích nghi), quá trình chữa lành được đặc trưng bởi nhiễm trùng và sau đó là sự tan chảy mô.
Mặt khác, trong trường hợp loét hoặc tổn thương mô, vùng bị ảnh hưởng sẽ được lấp đầy bằng tế bào và mô, ban đầu có thể dẫn đến sưng, co thắt, ngứa và viêm. Đó là lý do tại sao đôi khi bạn phải "trở nên tồi tệ hơn" trước khi khỏe lại.
Như đã đề cập trước đó, các vi khuẩn như vi rút và vi khuẩn thường bị đổ lỗi là nguyên nhân gây bệnh, sẽ bắt đầu chữa lành cơ quan hoặc bộ phận cơ thể bị ảnh hưởng sau khi xung đột gây ra bệnh được giải quyết.
Theo Tiến sĩ Hamer, các tác nhân gây bệnh như nấm và vi khuẩn chỉ giúp chữa lành các rối loạn não cũ, trong khi virus lại đóng vai trò chữa lành các bệnh não mới. Những vi khuẩn này phân hủy các khối u và mô bị tổn thương mà cơ thể không cần đến. Đó là lý do tại sao tiêm chủng, hóa trị và kháng sinh lại có hại - chúng cản trở quá trình chữa lành.
Do đó, các bệnh như cúm, viêm gan, herpes và cúm dạ dày, thường kèm theo sưng tấy, sốt, mủ, tiết dịch, đau và các triệu chứng tương tự là dấu hiệu cho thấy quá trình chữa lành 'độc hại' nhưng tự nhiên đang diễn ra.
Tiến sĩ Hamer chỉ ra rằng vì y học thông thường chỉ chứng kiến hoạt động của vi khuẩn và tác động của chúng lên cơ thể trong giai đoạn "độc hại" (thực chất là quá trình chữa lành), nên họ đổ lỗi cho những mầm bệnh này là nguyên nhân gây bệnh.
Nghiên cứu gần đây đã đưa ra bằng chứng đáng kinh ngạc cho thấy những người mắc bệnh ung thư nhưng sống trong môi trường xã hội phong phú có thể tự chữa lành. Sự thoái triển tự phát không phải là một hiện tượng mới và đã được quan sát thấy ở một số loại ung thư như u nguyên bào thần kinh, ung thư biểu mô tế bào thận, u lympho, u ác tính hắc tố và một số loại ung thư vú.
Giờ đây, các nhà nghiên cứu từ Đại học Bang Ohio có thể đã tìm ra lý do và cách thức thoái triển tự phát diễn ra. Theo những phát hiện được công bố trên tạp chí Cell, các nghiên cứu trên chuột cho thấy khối u ung thư ở loài gặm nhấm co lại đáng kể khi chúng được đặt trong môi trường có nhiều đồ chơi và nhiều chuột hơn để tương tác.
Khối u ở những con chuột được "làm giàu" này được phát hiện đã giảm 77 phần trăm về khối lượng và 43 phần trăm về thể tích so với những con chuột trong nhóm đối chứng.
Khi cố gắng tìm hiểu những thay đổi nào đã diễn ra ở cấp độ sinh hóa, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng những con chuột được "làm giàu" có nồng độ glucosteroid trong máu cao hơn. Điều này cho thấy chúng đã trải qua căng thẳng nhiều hơn so với nhóm đối chứng, nhưng bản chất của căng thẳng dường như rất quan trọng - "căng thẳng hạnh phúc"!
Ngoài ra, những con chuột được "làm giàu" còn biểu hiện một số thay đổi về chuyển hóa và cũng cho thấy nồng độ yếu tố tăng trưởng được giải phóng từ vùng dưới đồi, được gọi là yếu tố dinh dưỡng thần kinh có nguồn gốc từ não (BDNF), cao hơn. Nghiên cứu sâu hơn cho thấy sự gia tăng nồng độ BDNF có tương quan với sự giảm khối u. Gần đây, đã có rất nhiều tranh luận về việc liệu việc tầm soát, đặc biệt là chụp nhũ ảnh ở phụ nữ, có thực sự là một ý tưởng hay hay không. Cuộc tranh luận tập trung vào thực tế là một số loại ung thư - thận, tinh hoàn, u lympho và u hắc tố - thường tự thoái triển. Mặc dù đây là sự thật mà nhiều bác sĩ ung thư sẽ xác nhận, một số ước tính rằng cứ 400 trường hợp như vậy thì có tới 1 trường hợp tự khỏi. Trên thực tế, khoảng 20% các trường hợp u lympho không Hodgkin tế bào B cấp độ thấp tự khỏi và các bác sĩ ung thư thường không điều trị những loại ung thư này trừ khi chúng trở nên ác tính.
Y học chính thống vẫn chưa tìm ra chìa khóa để giải mã "bí ẩn" của sự thoái lui tự phát. Nhưng câu trả lời không hề bí ẩn chút nào. Mặc dù ung thư và tâm trí đều là những hiện tượng cực kỳ phức tạp và mang tính chủ quan cao, nhưng thực tế là khả năng tự chữa lành không chỉ khả thi mà còn xảy ra ở cả những căn bệnh nghiêm trọng như ung thư. Trong cuốn sách "Ung thư không phải là bệnh", tôi thậm chí còn đi xa hơn khi khẳng định rằng ung thư là một cơ chế chữa lành hoặc sinh tồn cần được hỗ trợ, chứ không phải bị ngăn chặn bởi các phương pháp điều trị y tế khắc nghiệt và tàn phá.
Ngoài ra, nghiên cứu của các nhà nghiên cứu tại Đại học bang Ohio còn làm sáng tỏ một yếu tố mạnh mẽ khác không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta mà còn ảnh hưởng đến các bệnh nghiêm trọng như ung thư, các yếu tố xã hội và 'chỉ số hạnh phúc'.
Rối loạn tự miễn, suy giảm miễn dịch và rối loạn miễn dịch là một nhóm bệnh khác đang gia tăng. Trong những bệnh này, hệ thống miễn dịch của cá nhân bị suy yếu và, theo y học thông thường, cơ thể bắt đầu tự tấn công chính mình.
Hãy quay lại với GNM và cách nó nhìn nhận các bệnh tự miễn. Về mặt lịch sử, những rối loạn này xuất hiện tương đối gần đây. Chúng ngày càng phổ biến trong thế kỷ 20, trong cuộc Cách mạng Công nghiệp, không phải vì điều kiện sống và làm việc không lành mạnh mà mọi người buộc phải sống mà là do sự gia tăng đột ngột và đáng kinh ngạc của tầng lớp trung lưu và giàu có.
Rối loạn miễn dịch thực sự là nỗi ám ảnh của những người giàu có và có học thức, những người thường có nhiều nỗi sợ hơn những người khác. Tôi không có ý nói rằng nỗi sợ hãi và lo lắng là lời nguyền của những người giàu có về mặt kinh tế, mà chỉ nói rằng trình độ học vấn càng cao thì khả năng họ có cuộc sống và công việc ít vận động càng lớn.
Theo ngôn ngữ tiến hóa, điều này có nghĩa là những người không ra ngoài và "lao động chân tay" có cơ chế đối phó kém hiệu quả. Và điều này, đến lượt nó, có nghĩa là họ có nhiều điều phải lo lắng và sợ hãi hơn từ môi trường xung quanh.
Những người sống trong sợ hãi và ngờ vực môi trường thường cố gắng kiểm soát môi trường xung quanh thay vì tìm ra gốc rễ vấn đề và giải quyết chúng. Do đó, mọi dấu hiệu và triệu chứng của bệnh tật đều đi kèm với nỗi sợ hãi ngày càng tăng, một dạng phản ứng với chính phản ứng của họ. Cuối cùng, nguồn gốc của bệnh tật lại quá xa vời với bản thân đến mức giải quyết xung đột dường như là bất khả thi, ít nhất là nếu không có sự can thiệp. Vòng luẩn quẩn là: Bệnh tật gây ra sợ hãi, rồi lại gây ra thêm bệnh tật và cuối cùng dẫn đến suy yếu hệ miễn dịch, khiến hệ miễn dịch suy yếu đến mức không thể chống chọi. Đơn giản là không có đủ sức mạnh để đối phó. Nói cách khác, lo lắng và bất an càng lớn, sốc xung đột càng lớn, cơ thể càng kém khả năng chống chọi, và cứ thế vòng luẩn quẩn cứ tiếp diễn.
Do đó, theo Y học Đức mới, các bệnh tự miễn như AIDS là sự kết hợp các triệu chứng do nhiều cú sốc xung đột gây ra.
>>Tiếp: 11.2 Bạn là bác sĩ của chính mình
11. Chương 9 - Toàn bộ sự thật
>>Trước: 10.7 Huyền thoại phòng ngừa
Bạn đã bao giờ nói rằng mình có "linh cảm" chưa? Hay bạn cảm thấy một "sự kết nối tâm hồn" với điều gì đó chưa? Nếu có, thì ngay tại khoảnh khắc đó, bạn đã trải nghiệm được sự kết nối giữa tâm trí và cơ thể đang hoạt động.
Nhưng hoàn toàn ngược lại, y học hiện đại, và hầu hết mọi người, đều nhìn nhận cơ thể con người như một tập hợp các bộ phận. Theo quan điểm cơ học này, khi "một bộ phận" của cơ thể bị trục trặc, nó cần được sửa chữa. Hãy bước vào thế giới của bác sĩ và bạn sẽ thấy kho vũ khí tinh vi của ông ấy - thuốc men, thiết bị, phẫu thuật, và thậm chí cả những bộ phận cơ thể mới! Hoặc hãy xem đội ngũ chuyên gia - bác sĩ tim mạch, bác sĩ tiêu hóa, bác sĩ ung thư, bác sĩ tiểu đường, bác sĩ thần kinh, bác sĩ da liễu, v.v.
Qua nhiều năm, công nghệ đã có những bước tiến vượt bậc, và khoa học y tế bắt đầu dựa vào - hay nói đúng hơn là tự hào - ngày càng nhiều hơn vào các công cụ chẩn đoán và điều trị công nghệ cao. Vì vậy, ngày nay, việc một bác sĩ chuyên về một cơ quan hoặc hệ thống của cơ thể là chưa đủ. Do đó, xuất hiện nhóm "siêu chuyên gia", những người tập trung vào các khía cạnh vi mô của các bộ phận, cơ quan và quy trình cơ thể. Vì vậy, chúng ta có những siêu chuyên khoa nghe có vẻ ấn tượng, đại loại như: gây mê tim, phẫu thuật võng mạc, tim mạch can thiệp và huyết học ung thư. Mức độ "chuyên môn hóa" càng cao, bác sĩ càng "uy tín". Đó là thứ bậc trong y học hiện đại.
Bản chất của những thuật ngữ này, ngoài sự khó hiểu và mơ hồ, y học siêu chuyên khoa còn đối lập với y học tâm-thân hay y học toàn diện. Y học siêu chuyên khoa coi bệnh tật là khiếm khuyết ở một bộ phận cơ thể hoặc một hệ thống sinh-sinh lý. Do đó, giống như một chiếc xe bị hỏng, giải pháp cho bệnh tật là điều trị hoặc loại bỏ bộ phận cơ thể bị trục trặc và thay thế bằng một bộ phận mới. Ít nhất, đó là những gì các "siêu chuyên khoa" tin tưởng.
Nhưng tại sao chỉ có y học? Xã hội hiện đại cũng đang đi theo hướng siêu chuyên môn. Các nhiệm vụ trong công việc đã trở nên phức tạp đến mức cần phải được chia nhỏ thành những đơn vị đơn giản hơn. Vì vậy, chúng ta cần những chuyên gia hoặc siêu chuyên gia cho từng khía cạnh của mỗi nhiệm vụ, dù đó là lĩnh vực tài chính, công nghệ thông tin, thời trang, làm phim hay thậm chí là nấu ăn!
Hãy lấy cách chúng ta sống làm ví dụ. Cơ thể con người được cấu thành từ khoảng 70% nước, và chúng ta, giống như tất cả các loài khác, là sinh vật của Trái Đất. Nhưng lối sống đô thị hiện đại, mà hầu hết chúng ta trân trọng và thậm chí ca ngợi, đã đưa chúng ta xa rời thiên nhiên đến mức nhiều người trong chúng ta quên mất nguồn gốc của mình và mối liên hệ mật thiết với hành tinh này.
Chúng ta có xu hướng sống trong một thế giới khép kín, tự kích thích bản thân quá mức với công việc, giải trí và các hình thức căng thẳng khác, nhưng vẫn mong đợi được khỏe mạnh và hạnh phúc. Ngay cả "thời gian" cũng bị phân mảnh và chia nhỏ đến mức cực đoan. Đó là lý do tại sao chúng ta có "thời gian làm việc", "thời gian dành cho gia đình", "thời gian chất lượng", "thời gian rảnh", "không có thời gian", và rất nhiều loại "thời gian" khác. Thật khó hiểu!
Điểm khởi đầu cho một cuộc sống khỏe mạnh và hạnh phúc bắt đầu từ câu hỏi: bạn có đang đồng điệu với nội tâm, với môi trường xung quanh và với vũ trụ nói chung hay không? Câu trả lời cho sức khỏe hay bệnh tật nằm ở chính câu trả lời cho câu hỏi duy nhất đó.
Hãy nghĩ xem. Não hay gan của bạn có hoạt động độc lập không? Liệu có thực sự có sự tách biệt giữa ruột già, ruột non và túi mật không? Cũng giống như các bộ phận trong cơ thể bạn hoạt động trong một sự kết hợp tinh tế, các quá trình sinh lý và tư duy của bạn cũng liên kết chặt chẽ với nhau. Ở một cấp độ khác, tâm trí và cơ thể bạn hòa quyện theo những cách tinh tế và không quá tinh tế với môi trường, những người xung quanh và các hoạt động hàng ngày của bạn. Tâm trí và cơ thể bạn cũng được kết nối và liên tục phản ứng với những sự kiện đã xảy ra từ rất lâu trong quá khứ, một số sự kiện mà bạn có thể không còn nhớ nữa.
Chúng ta luôn hoạt động trên nhiều tầng và cấp độ khác nhau, dù chúng ta có nhận thức được hay không. Bệnh tật và hệ miễn dịch hoạt động theo cùng một cách. Bạn có biết hệ miễn dịch của bạn được điều chỉnh tinh vi theo mức độ căng thẳng của bạn không? Tại sao bạn lại nghĩ rằng "mụn cóc lo lắng" dễ bị ốm hơn? Tại sao những người không có tiền sử bệnh tim cá nhân hoặc gia đình và không có dấu hiệu tắc nghẽn động mạch lại đột ngột ngã quỵ vì đau tim?
Các nhà khoa học hiện đang nói về trí nhớ tế bào. Vẫn còn trong phạm vi "lý thuyết", đây là một lĩnh vực nghiên cứu giả định rằng nó không chỉ là não bộ mà còn cả các cơ quan lưu trữ ký ức, thói quen, mùi vị và sở thích của chúng ta. Họ tin rằng neuropeptide - những phân tử protein chuyên biệt nhỏ - giúp não truyền tín hiệu và giao tiếp với các cơ quan khác nhau, cũng tham gia vào trí nhớ tế bào.
Điều này được giả định với phát hiện rằng neuropeptide, từng được cho là có trong não, cũng có trong một số cơ quan của cơ thể người, đặc biệt là tim. Trước khi bạn vội vàng đưa ra bất kỳ kết luận nào, xin được nói rõ rằng tôi không đưa ra điều này như một "bằng chứng" cho mối liên hệ giữa tâm trí và cơ thể. Tôi chỉ muốn gợi ý rằng hoạt động của cơ thể con người, thậm chí từng bộ phận riêng lẻ, còn nhiều điều hơn cả khoa học hiện đại có thể giải thích.
Do đó, quan điểm giản lược của y học hiện đại không chỉ hoàn toàn trái ngược với y học toàn diện, mà tôi tin rằng thậm chí không cần phải "chứng minh" mối liên hệ giữa tâm trí và cơ thể. Tất cả những gì chúng ta cần biết là nó tồn tại, nó hiện hữu và ảnh hưởng đến chúng ta trong mọi việc chúng ta làm, dù chúng ta có nhận ra hay không.
>>Tiếp: 11.1 Tâm trí vượt qua vật chất
10.7 Huyền thoại phòng ngừa
>>Trước: 10.6 Nhắm vào những người yếu thế
Các công ty dược phẩm sản xuất vắc-xin cúm mùa dường như có tác động mạnh mẽ hơn đến dân số so với các nhà khoa học đã phát minh ra chúng. Ngay từ năm 1980, Tiến sĩ Albert Sabin, một trong những nhà virus học hàng đầu thế giới và là người tiên phong trong lĩnh vực vắc-xin bại liệt, đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ việc sử dụng vắc-xin cúm, cho rằng nó không cần thiết cho hơn 90% dân số. Tuy nhiên, điều này không làm nản lòng ngành công nghiệp vắc-xin trong việc ủng hộ việc tiêm chủng cho tất cả mọi người vì sức khỏe và bảo vệ chống lại bệnh tật.
Điều tệ hơn nữa là chưa từng có thử nghiệm lâm sàng nào được kiểm soát chặt chẽ với vắc-xin cúm. Vì chúng ta không biết gì về tác dụng lâu dài của nó, nên chúng ta có thể vô tình tạo ra nhiều thế hệ người có hệ thống miễn dịch suy yếu và mắc bệnh mãn tính.
Tiêm phòng cúm là một biện pháp chưa được chứng minh và phi khoa học, và không có tài liệu khoa học nào chứng nhận hoặc đảm bảo tính an toàn của nó. Trong khi việc đưa thủy ngân hoặc formaldehyde vào thực phẩm là bất hợp pháp vì chúng đã được chứng minh là có tác dụng gây chết người, thì việc tiêm cùng một loại độc tố vào máu của hàng triệu người, năm này qua năm khác, lại hoàn toàn hợp pháp. Chỉ vì việc đầu độc dân chúng một lần là hợp pháp, điều đó không có nghĩa là nó an toàn. Cách an toàn và hiệu quả nhất để chống lại các bệnh nhiễm trùng, bao gồm cả cúm, là phòng ngừa. Không có gì thay thế được một chế độ tăng cường sức khỏe.
Mặt khác, tiêm chủng không mang lại sự bảo vệ thực sự. Việc tiêm vào cơ thể vật chất virus lạ và độc hại sẽ phản tác dụng đối với việc cải thiện sức khỏe. Tiến sĩ John Seal từ Viện Dị ứng và Bệnh Truyền nhiễm Quốc gia Hoa Kỳ cảnh báo rằng chúng ta phải mặc định rằng mọi mũi tiêm phòng cúm đều có thể gây ra Hội chứng Guillain-Barré. Theo nghĩa này, phòng bệnh không hơn chữa bệnh.
Gửi những ai gần đây nghe báo chí đưa tin về một nghiên cứu của Anh khẳng định vắc-xin cúm có thể giảm nguy cơ đau tim tới 19%, tôi phải nói rằng đây chỉ là một chiêu trò tiếp thị khéo léo và hoàn toàn là thông tin sai lệch. Những gì báo chí đưa tin không phải là những gì các nhà nghiên cứu đã nói với họ. Nghiên cứu đã xem xét hồ sơ của 79.000 bệnh nhân từ 40 tuổi trở lên ở Anh và xứ Wales từ năm 2001 đến năm 2007 và được cho là phát hiện ra rằng những người đã tiêm vắc-xin cúm ít bị đau tim hơn. Tuy nhiên, không có mối liên hệ thực sự nào được thiết lập, bởi vì, như đã biết, không có. Tờ USA Today đưa tin rằng có những sai sót đáng chú ý trong nghiên cứu này.
Tờ USA Today cho biết: "Tiến sĩ Kirk Garratt, phó giám đốc khoa can thiệp tim mạch tại Bệnh viện Lenox Hill ở Thành phố New York, cho biết nghiên cứu phát hiện số bệnh nhân đau tim được tiêm vắc-xin ít hơn 19 phần trăm trong năm trước, chứ không phải là số ca đau tim giảm 19 phần trăm trong số những người được tiêm vắc-xin".
Garratt nói thêm: "Nếu tiêm vắc-xin phòng cúm có thể ngăn ngừa 19 phần trăm các cơn đau tim thì điều này đã được nhận thấy từ lâu rồi".
Ai mà chẳng muốn giảm nguy cơ đau tim chứ? Hàng triệu người ngoài kia đang lo lắng, muốn cảm thấy an toàn, và nếu sự an toàn của họ phụ thuộc vào việc tiêm vắc-xin cúm, họ sẽ tiêm. Thật đáng buồn khi rất nhiều người mù quáng nghe theo lời khuyên được đăng tải trên các tiêu đề báo chí đầy sức thuyết phục và mạnh mẽ, "Tiêm vắc-xin cúm giúp giảm nguy cơ đau tim".
Như Tiến sĩ Kirk Garratt đã nói với tờ USA Today: "Nghiên cứu này không đo lường nguy cơ đau tim ở những người đã tiêm vắc-xin và chưa tiêm vắc-xin. Nghiên cứu này đo lường tỷ lệ tiêm chủng ở những bệnh nhân đau tim và những người không bị đau tim.
Tất nhiên, nghiên cứu phát hiện ra rằng có ít hơn 19 phần trăm bệnh nhân đau tim được tiêm phòng cúm trong năm trước - điều này không tương đương với việc giảm 19 phần trăm số ca đau tim ở những người được tiêm phòng, như các tiêu đề báo chí muốn chúng ta tin.
Tóm lại, tiêm phòng cúm không làm giảm nguy cơ nhiễm vi-rút cúm, cũng không làm giảm tình trạng viêm động mạch hoặc số ca viêm phổi liên quan, hoặc số ca tử vong do viêm phổi (mà CDC thường gọi là "tử vong do cúm").
Một nghiên cứu năm 2008 được công bố trên tạp chí Lancet, và xác nhận một nghiên cứu trước đó được công bố vào tháng 5 năm 2003 trên Tạp chí Y học New England, đã phát hiện ra rằng việc tiêm vắc-xin phòng cúm không làm giảm nguy cơ viêm phổi ở người cao tuổi. Nghiên cứu sau này cũng phát hiện ra rằng không có mối liên hệ nào giữa việc tiêm vắc-xin phế cầu khuẩn và việc giảm nguy cơ viêm phổi do bất kỳ nguyên nhân nào.
Vì tình trạng viêm là yếu tố chính làm tăng nguy cơ đau tim và vắc-xin thực sự làm tăng tình trạng viêm trong cơ thể, do đó tôi khuyến cáo tất cả những người mắc bệnh tim, ung thư, viêm khớp hoặc các bệnh khác nên tránh xa vắc-xin cúm hoặc bất kỳ loại vắc-xin nào khác.
>>Tiếp: 11. Chương 9 - Toàn bộ sự thật
10.6 Nhắm vào những người yếu thế
>>Trước: 10.5 Vắc-xin gây ra bệnh cúm
Vắc-xin cúm chủ yếu nhắm vào người cao tuổi và trẻ nhỏ. Tại Vương quốc Anh, khoảng 10.000 người, hầu hết đều ở độ tuổi rất cao, (được cho là) đã tử vong vì các bệnh liên quan đến cúm. Do đó, việc tiêm vắc-xin cho người cao tuổi để bảo vệ họ khỏi vi-rút cúm nghe có vẻ hợp lý. Tuy nhiên, ngay cả những người đã được tiêm chủng cũng không được bảo vệ hoàn toàn.
Khoảng 20% hoặc hơn số người cao tuổi đã tiêm vắc-xin vẫn mắc phải chủng cúm độc lực cao hơn, và nhiều người khác mắc phải dạng cúm nhẹ hơn. Điều này cũng đúng với những người cùng độ tuổi chưa được tiêm chủng. Người yếu và người cao tuổi có nguy cơ tử vong vì cúm cao hơn, bất kể họ đã được tiêm chủng hay chưa.
Tóm lại, việc tiêm vắc-xin cúm không mang lại lợi ích thực sự nào. Và chắc chắn, xét đến sự yếu ớt của rất nhiều thành viên lớn tuổi nhất trong xã hội, hoàn toàn không có cách nào đáng tin cậy để biết liệu cúm hay một nguyên nhân nào khác có thể dẫn đến cái chết của họ. Tỷ lệ tử vong trong và ngoài mùa cúm thực tế là gần như nhau. Nhưng rồi, như chúng ta đã thấy với AIDS, số liệu thống kê có thể bị thao túng theo những cách ủng hộ các lý thuyết chỉ có một mục tiêu duy nhất, đó là duy trì hoạt động y tế. Ví dụ, khi một người sắp chết mà lại mắc cúm, người đó sẽ được liệt kê là nạn nhân cúm.
Thay vì tiêm vắc-xin cho người cao tuổi với niềm tin sai lầm rằng điều này sẽ chăm sóc họ, chúng ta có thể giúp họ nhiều hơn bằng cách cải thiện sức đề kháng chung của cơ thể với bệnh tật thông qua chế độ ăn uống tốt, các hoạt động xã hội và chương trình tập thể dục. Nhiều người cao tuổi không được cung cấp đủ dinh dưỡng và bị trầm cảm; cả hai yếu tố này đều hoạt động như những chất ức chế miễn dịch mạnh mẽ. Hầu hết họ đều tránh xa ánh nắng mặt trời vì được cảnh báo có thể gây ung thư da, đặc biệt là ở độ tuổi của họ. Do đó, lượng vitamin D của họ thuộc nhóm thấp nhất trong mọi nhóm tuổi, dẫn đến hệ miễn dịch bị suy yếu. Những người khác thì không có nhà ấm hoặc sống một mình.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng đây là những yếu tố nguy cơ chính gây bệnh tật và tử vong ở người cao tuổi. Chỉ riêng việc thanh lọc gan cũng có thể tăng cường khả năng miễn dịch tự nhiên, cải thiện tiêu hóa, làm chậm quá trình lão hóa, phục hồi sức khỏe và cải thiện chức năng tinh thần.
Ở các nước đang phát triển, nơi người cao tuổi đóng vai trò quan trọng trong xã hội, tỷ lệ mắc bệnh nói chung thấp, miễn là có đủ lương thực. Ở những nước này, người cao tuổi có nguy cơ tử vong do suy dinh dưỡng cao hơn là do một chủng virus.
Người cao tuổi, tất nhiên, là một trong những nhóm mục tiêu cốt lõi của chương trình tiêm vắc-xin cúm. Vì vậy, hàng năm chúng ta đều được nghe nói rằng người cao tuổi đặc biệt dễ bị cúm. Chúng ta cũng được biết rằng các quan chức chính phủ đang nín thở vì lo sợ một đại dịch cúm tàn khốc. Chúng ta thậm chí còn được biết rằng trong số 36.000 ca tử vong liên quan đến cúm hàng năm ở Hoa Kỳ, phần lớn là người cao tuổi.
Tuy nhiên, thực tế lại hoàn toàn khác. Bạn nghĩ có bao nhiêu người chết vì cúm vào năm 2009? Theo Sherri J Tenpenny, Tiến sĩ Y khoa, một nhà nghiên cứu vắc-xin hàng đầu thế giới, thì chỉ có chưa đến 175 người!
Đây là một số tin xấu khác cho người cao tuổi. Trong một lời thừa nhận đáng lên án vào tháng 4 năm 2010, Michael Osterholm (giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Chính sách Bệnh truyền nhiễm của Đại học Minnesota và là giáo sư thỉnh giảng tại Trường Y Đại học Minnesota) đã phát biểu tại một hội nghị của các nhà nghiên cứu vắc-xin rằng đã đến lúc tìm kiếm các giải pháp thay thế để bảo vệ người cao tuổi khỏi bệnh cúm.
Theo chính lời ông: "Khi hệ miễn dịch của chúng ta suy yếu theo tuổi tác, cùng một loại vắc-xin cúm, vốn giúp cơ thể chúng ta tạo ra phản ứng miễn dịch mạnh mẽ ở độ tuổi 20, chỉ tạo ra phản ứng yếu ở độ tuổi 60 trở lên. Phản ứng yếu hơn đó có thể đủ để bảo vệ một người lớn tuổi khỏe mạnh khỏi bệnh cúm. Nhưng bằng chứng cho thấy nó không đủ để thực sự ngăn ngừa tử vong ở hầu hết những người cao tuổi yếu ớt tử vong mỗi năm do các nguyên nhân liên quan đến cúm."
Giờ thì còn nhớ cơn hoảng loạn cúm lợn khi CDC loại trừ người cao tuổi khỏi đợt tiêm chủng hàng loạt đầu tiên không? Họ nói rằng điều này là do Người cao tuổi có nguy cơ nhiễm trùng thấp. Kể từ đó, kháng nguyên cúm lợn H1N1 đã được đưa vào vắc-xin cúm mùa ba giá và CDC khuyến nghị mọi công dân trên sáu tháng tuổi nên tiêm vắc-xin trong mùa cúm 2010-2011.
Do đó, CDC không chỉ thay đổi hoàn toàn vắc-xin H1N1 dành cho người cao tuổi mà còn tăng cường hiệu lực của thành phần cúm mùa lên gấp bốn lần! Theo lời CDC: "Một công thức liều cao hơn của vắc-xin cúm mùa bất hoạt để sử dụng cho người từ 65 tuổi trở lên sẽ được tiêm vắc-xin cúm trong mùa cúm 2010-2011." CDC cũng thừa nhận rằng loại vắc-xin mới này chưa được thử nghiệm và kết quả thử nghiệm sẽ chỉ có sau mùa cúm 2010-2011.
Còn nhóm nguy cơ cao khác - trẻ nhỏ - thì sao? Các nhà nghiên cứu Nhật Bản đã chỉ ra rằng trẻ sơ sinh dưới một tuổi thậm chí không tạo ra được phản ứng kháng thể tốt sau khi tiêm vắc-xin. Tại Hoa Kỳ, các nhà nghiên cứu thuộc Hội nghị Quốc tế của Hiệp hội Lồng ngực Hoa Kỳ đã công bố phát hiện của họ vào ngày 19 tháng 5 năm 2009, cho thấy trẻ em được tiêm vắc-xin cúm bất hoạt ba giá (chứa ba chủng vi-rút cúm) có nguy cơ nhập viện vì cúm cao gấp ba lần so với những trẻ chưa được tiêm vắc-xin cúm.
Các nhà nghiên cứu đã theo dõi 263 trẻ em trong độ tuổi từ sáu đến 18 tháng từ năm 1996 đến năm 2006. Những trẻ em này được đánh giá thường xuyên tại Phòng khám Mayo để xét nghiệm bệnh cúm được xác nhận trong phòng thí nghiệm.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng vắc-xin cúm không chỉ không ngăn ngừa được trẻ em mắc cúm mà những người đã tiêm còn bị bệnh nặng hơn những người không tiêm. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với các công ty dược phẩm lớn, những công ty thu được lợi nhuận khổng lồ trong khi các công ty bảo hiểm y tế và phụ huynh phải trả tiền cho những loại vắc-xin không hiệu quả!
Và đây là một tin khá đáng sợ. Giữa vô số tin tức về sức khỏe đang được truyền tải đến các bậc phụ huynh thiếu cảnh giác, có một bản tin hé lộ cho chúng ta cái nhìn thoáng qua về Bộ phận Gian lận của FDA.
Bản tin tháng 7 năm 2010 nêu rằng các nhà sản xuất vắc-xin đã bắt đầu đưa vắc-xin cúm của họ ra thị trường sớm hơn bình thường do lo ngại về cúm lợn năm 2009. Tuy nhiên, bản tin này cũng bao gồm một tuyên bố từ FDA Hoa Kỳ nêu rõ: "Nhãn hiệu của một loại vắc-xin, Afluria của CSL Limited (Úc), đã có những thay đổi trong mùa này để thông báo cho các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe về tỷ lệ sốt, nôn mửa và co giật do sốt tăng cao, xảy ra ở trẻ nhỏ, chủ yếu là trẻ dưới năm tuổi, sau khi tiêm vắc-xin cúm CSL công thức Nam bán cầu năm 2010."
Theo báo WA Today đưa tin: "Bà mẹ hai con Bea Flint ở Perth cho biết cậu con trai 11 tháng tuổi Avery của cô đã lên cơn co giật sau khi tiêm mũi vắc-xin cúm đầu tiên gồm hai mũi vào thứ Bảy. Bà Flint cho biết sau khi tiêm vắc-xin lúc 9 giờ sáng, bà nhận thấy Avery bị sốt nhẹ vào khoảng 2 giờ chiều. Lúc 7 giờ 45 phút tối, Avery bắt đầu rên rỉ. Khi bà Flint đến nôi của con, cậu bé đã nôn và nằm nghiêng, co giật. 'Cháu không thể khóc - đầu cháu gục xuống ghế ô tô và cháu không thể cử động. Tôi chết lặng - đó là một trong những trải nghiệm tồi tệ nhất trong đời tôi".
Câu chuyện tiếp tục như sau: "Bác sĩ điều trị cho Avery nói với bà Flint rằng đứa con của bà là đứa trẻ thứ năm có triệu chứng tương tự được đưa vào bệnh viện ngày hôm đó."
Thay vì từ chối tiêm loại vắc-xin có khả năng gây tử vong cho hàng triệu trẻ em Mỹ, FDA lại "thay đổi nhãn mác". Chẳng phải điều này tương đương với tội giết người có chủ đích sao? Mà này, FDA cũng chỉ khuyến nghị nhà sản xuất vắc-xin "tiến hành nghiên cứu về vắc-xin trên trẻ em". Và đây chính là cơ quan được cho là đang bảo vệ sức khỏe của chúng ta!
Tất cả những điều này thật trớ trêu, khi xét đến việc chính phủ Úc đã đình chỉ tất cả các mũi tiêm phòng cúm tại quốc gia này sau khi hơn 250 phản ứng phụ, bao gồm cả cái chết của một đứa trẻ, được báo cáo trên khắp nước Úc vào tháng 4 năm 2010. Những phản ứng phụ này bao gồm nôn mửa, sốt cao và trong một số trường hợp là co giật. Liệu chúng ta có đang thấy một mô hình ở đây mà các nhà sản xuất vắc-xin và chính quyền từ chối thừa nhận?
Nỗi lo sợ, vốn đã làm tắc nghẽn các đường dây nóng y tế, nhanh chóng lan rộng khắp cả nước và sang cả nước láng giềng New Zealand. Bộ Y tế Úc đã chính thức tuyên bố rằng Fluvax của CSL có thể là nguyên nhân, mặc dù công ty này đã phủ nhận điều này. Lại là CSL!
>>Tiếp: 10.7 Huyền thoại phòng ngừa
10.5 Vắc-xin gây ra bệnh cúm
>>Trước: 10.4 Thuyết âm mưu về vắc-xin cúm?
Tiêm phòng cúm làm giảm khả năng miễn dịch tự nhiên bằng cách tiêm trực tiếp các chất lạ và độc hại vào máu. Không loài động vật nào khác trên thế giới chọn cách phòng vệ phi tự nhiên, hời hợt và thô sơ như vậy để chống lại virus xâm nhập. Đường tiếp xúc thông thường với virus là qua phổi.
Phần lớn dân số có hệ miễn dịch bình thường, khỏe mạnh và hoàn toàn có khả năng chống lại các tác nhân xâm nhập mà không bị bệnh. Tuy nhiên, nếu hệ miễn dịch của cơ thể tạm thời "đình công" vì những lý do khác ngoài việc thiếu vắc-xin, virus cúm có thể xâm nhập không giới hạn vào cơ thể và gây nhiễm trùng, và cơ thể cần làm như vậy để bắt đầu quá trình chữa lành.
Tiêm chủng thường xuyên (bất kỳ loại nào) là một trong những nguyên nhân chính gây suy giảm miễn dịch. Việc tiêm phòng cúm hàng năm liên tục khiến hệ miễn dịch và các tế bào của cơ thể phải gánh chịu các tác nhân độc hại lạ mà không có cơ hội đào thải. Các hạt virus độc hại có thể tồn tại tiềm ẩn trong tế bào và sỏi mật đến 20 năm. Khi chúng xuất hiện, chúng có thể gây tổn thương tế bào nghiêm trọng.
Với mỗi lần tiêm chủng mới, hệ miễn dịch ngày càng bị hạn chế trong nỗ lực vô hiệu hóa virus sống đột ngột xuất hiện trong máu. Hệ miễn dịch có thể sản xuất kháng thể chống lại virus và do đó chế ngự được virus (mặc dù trong nhiều trường hợp, hệ miễn dịch thậm chí còn không làm được điều đó). Tuy nhiên, cuộc chạm trán này lại khiến hệ miễn dịch của vật chủ mệt mỏi và suy yếu một cách không cần thiết.
Trong bối cảnh này, các nhà nghiên cứu đang xem xét những kết quả đáng kinh ngạc được các nhà nghiên cứu ở Canada phát hiện vào năm 2009. Các nhà nghiên cứu này phát hiện ra rằng những người đã được tiêm phòng cúm theo mùa có nguy cơ mắc cúm lợn cao hơn.
Bốn nghiên cứu sau đó đã được các cơ quan y tế công cộng thực hiện vào giữa năm 2009, với sự tham gia của 2.700 người mắc và không mắc cúm đại dịch hoặc H1N1. Các đối tượng trong nghiên cứu đầu tiên đã tiêm vắc-xin cúm mùa được quan sát thấy có nguy cơ mắc cúm đại dịch cao hơn 68% so với những người không tiêm vắc-xin cúm. Trong ba nghiên cứu còn lại, nguy cơ cao hơn từ 1,4 đến 1,5 lần. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm ra nguyên nhân, nhưng họ nghi ngờ rằng những người có nguy cơ cao hơn đã làm suy yếu hệ miễn dịch do tiêm vắc-xin cúm mùa trước khi dịch cúm lợn bùng phát.
Nhưng bên cạnh tổn thương miễn dịch, vắc-xin các loại còn gây ra những biến đổi trong vật chất di truyền và do đó gây ra một loạt các rối loạn chức năng trong cơ thể, bao gồm cả khối u ung thư. Vắc-xin thậm chí có thể là nguyên nhân gây ra tỷ lệ mắc các bệnh ác tính ngày càng tăng ở trẻ em.
Các chương trình tiêm chủng hàng loạt đã tạo ra hệ thống miễn dịch yếu đến mức trẻ em thậm chí còn dễ bị nhiễm những loại virus vô hại như virus gây cúm. Chúng ta thậm chí có thể đã thay thế bệnh quai bị và sởi bằng ung thư, bệnh bạch cầu và Hội chứng mệt mỏi mãn tính.
>>Tiếp: 10.6 Nhắm vào những người yếu thế
10.4 Thuyết âm mưu về vắc-xin cúm?
>>Trước: 10.3 Vắc-xin cúm không có tác dụng
Tiêm chủng chắc chắn không tạo ra khả năng miễn dịch. Bạn không thể đạt được miễn dịch bằng cách uống phải chất độc phá hủy hệ thống miễn dịch. Nghiên cứu của một nhóm các nhà khoa học Ý cho thấy vắc-xin cúm chỉ làm giảm 6% các đợt cúm lâm sàng ở người lớn, và hiệu quả có xu hướng giảm dần theo tuổi tác. Họ kết luận rằng việc tiêm chủng phổ quát là không cần thiết.
Nói một cách đơn giản, rửa tay và các biện pháp vệ sinh và dinh dưỡng khác tốt hơn nhiều so với vắc-xin cúm. Nếu bạn thực hành vệ sinh tốt, ăn thực phẩm bổ dưỡng và giữ cho ruột và gan sạch sẽ, cúm sẽ không bao giờ trở thành một căn bệnh chết người. Ngược lại, tiêm vắc-xin cúm là một cách chắc chắn gieo mầm bệnh mới vào cơ thể. Tất cả các loại vắc-xin đều có độc và do đó, chúng hoạt động như những quả bom hẹn giờ sẽ phát nổ đúng lúc.
Đây là một điều sẽ khiến bạn phải chú ý. Nó có mật danh: 'Bằng sáng chế Hoa Kỳ số 5911998 - Phương pháp sản xuất vắc-xin virus từ dòng tế bào thận khỉ xanh châu Phi'. Nhiều người đã biết rằng virus được nuôi cấy trong các cơ quan của động vật, một điều khá nguy hiểm (Xem Chương 2: Những Sai Lầm Lịch Sử và Virus SV40), nhưng điều thực sự thú vị là đơn vị sở hữu bằng sáng chế này.
Chủ sở hữu là Dyncorp, một nhà thầu quân sự tư nhân hợp tác với chính phủ Hoa Kỳ. Khẩu hiệu của Dyncorp trên trang web của công ty cho biết mục tiêu của công ty là "làm cho thế giới trở nên an toàn hơn". Công ty được niêm yết trên Sàn giao dịch Chứng khoán New York này tự mô tả mình là "nhà cung cấp dịch vụ chính phủ toàn cầu hỗ trợ các mục tiêu an ninh quốc gia và chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ..."
Dyncorp tuyên bố họ giúp thế giới trở nên an toàn hơn. Tuy nhiên, công ty này bị cáo buộc vi phạm nhân quyền và diệt chủng ở Bosnia, Ecuador và Colombia. Dịch vụ của công ty cũng được chính phủ Hoa Kỳ thuê để tuần tra biên giới Hoa Kỳ-Mexico, nơi dịch cúm lợn bùng phát lần đầu tiên vào năm 2009.
Có phải chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi công ty cũng sở hữu các bằng sáng chế bao gồm Các phương pháp thu hoạch vắc-xin virus sống giảm độc lực cùng với Viện Y tế Quốc gia (NIH) của chính phủ Hoa Kỳ? Tại sao chính phủ Hoa Kỳ lại hợp tác với một nhà thầu quân sự tư nhân bị cáo buộc phạm tội diệt chủng? Hay Dyncorp đang thông đồng với chính phủ Hoa Kỳ trong một âm mưu lớn hơn?
Đây là một "sự trùng hợp ngẫu nhiên" khác. Một trong những nhà sản xuất vắc-xin được trao hợp đồng sản xuất vắc-xin cúm lợn đang được quảng cáo rầm rộ là Baxter, đang sử dụng các thành phần từ loài khỉ xanh châu Phi để sản xuất vắc-xin theo cách được giải thích trong bằng sáng chế Dyncorp-NIH!
>>Tiếp: 10.5 Vắc-xin gây ra bệnh cúm
10.3 Vắc-xin cúm không có tác dụng
>>Trước: 10.2 Cúm không lây truyền
Vắc-xin chưa bao giờ được chứng minh là hiệu quả hơn việc không làm gì cả. Ngược lại, chúng đã góp phần gây ra vô số đợt bùng phát dịch bệnh, điều mà tôi đã thảo luận rất chi tiết trong cuốn sách "Bí quyết vượt thời gian về sức khỏe và trẻ hóa" (Timeless Secrets of Health and Rejuvenation).
Ví dụ, vào năm 1918-1919, trong đợt bùng phát dịch cúm gia cầm ở Tây Ban Nha, chỉ những binh lính và những người khác được tiêm vắc-xin phòng cúm mới thực sự ngã bệnh và tử vong, thường là ngay sau khi tiêm. Hàng triệu người đã chết vì những loại vắc-xin gây chết người mà cơ thể không có khả năng tự vệ. Những người từ chối tiêm vắc-xin vẫn khỏe mạnh, bất chấp giúp đỡ người bệnh và khiêng người chết đi.
Ngành công nghiệp vắc-xin khẳng định rằng vắc-xin phòng cúm của họ là chìa khóa cho một mùa đông khỏe mạnh. Đó là lý do tại sao ở nhiều quốc gia có mùa đông khắc nghiệt, người dân đổ xô đi tiêm vắc-xin cúm hàng năm.
Cúm luôn bắt đầu ở Viễn Đông và sau đó lan sang phương Tây vào đầu mùa đông, đạt đỉnh điểm vào tháng 2 và tháng 3. Nó có thể đến ở một trong ba loại, A, B hoặc C. Trong vài năm trở lại đây, loại A là chủng hoạt động chiếm ưu thế. Điều khiến việc tiêm vắc-xin phòng cúm không thành công là do vi-rút cúm đột biến rất nhanh và mỗi năm lại có một chủng mới hoạt động. Ngoài ra, cái gọi là khả năng bảo vệ do vắc-xin mang lại chỉ kéo dài trong sáu tháng. Vì vậy, mỗi mùa thu, bạn cần tiêm vắc-xin mới cho một loại vi-rút khác. Vấn đề là, các công ty dược phẩm không có cách nào biết được vào mùa hè, chủng vi-rút cúm mới nào sẽ tấn công Tây bán cầu trong những tháng mùa đông. Theo đó, hàng triệu người được tiêm vắc-xin phòng ngừa một chủng cũ, lỗi thời mà không có gì, ngoại trừ việc phát triển hệ thống miễn dịch yếu hơn và phát triển các tác dụng phụ khác có thể bao gồm các triệu chứng cúm.
Mặc dù dịch cúm nghiêm trọng đã không xảy ra trong gần 40 năm, vắc-xin của họ vẫn được kê đơn cho hàng triệu người mỗi năm. Bạn có thể tự hỏi tại sao những người hoàn toàn khỏe mạnh lại được tiêm một loại vi-rút thường vô hại nhưng lại có chủng biến đổi qua từng năm. Mặc dù vắc-xin cúm không bao giờ chính xác, nhưng các nhà tuyển dụng vẫn khuyến khích hàng triệu nhân viên tiêm vắc-xin cúm mỗi năm, cố gắng tránh mất ngày làm việc.
Các nghiên cứu về cái gọi là hiệu quả của vắc-xin cúm mùa đã nhiều lần chỉ ra rằng "vắc-xin cúm" ít ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc bệnh. Tuy nhiên, không có gì khuấy động cuộc tranh luận như kết quả của một nghiên cứu mới do các nhà nghiên cứu Canada dẫn đầu, chứng minh rằng việc tiêm chủng cho nhân viên y tế làm việc tại các viện dưỡng lão không có tác dụng gì đối với tỷ lệ mắc cúm trong khu vực của họ.
Kết luận này dựa trên năm nghiên cứu được tiến hành từ năm 1997 đến năm 2009. Theo Tiến sĩ Roger Thomas thuộc Đại học Calgary, tác giả chính của bài báo được Thư viện Cochrane công bố, và Tiến sĩ Tom Jefferson, đồng tác giả của bài báo và chuyên gia về vắc-xin thuộc Nhóm cộng tác cơ sở dữ liệu Cochrane, nghiên cứu cho thấy việc tiêm chủng cho nhân viên y tế không có tác dụng đối với bệnh cúm được xác nhận trong phòng thí nghiệm; nó không làm giảm tỷ lệ mắc bệnh viêm phổi ở người cao tuổi; và nó không liên quan đến tỷ lệ tử vong do viêm phổi trong nhóm mục tiêu.
Đối với việc tiêm chủng cho chính người cao tuổi, các nghiên cứu có kết quả được công bố trên Tạp chí Y học Hô hấp và Chăm sóc Đặc biệt Hoa Kỳ cho thấy số ca tử vong do cúm và viêm phổi ở người cao tuổi vẫn không thay đổi mặc dù tỷ lệ tiêm chủng đã tăng từ 15 phần trăm vào năm 1980 lên 65 phần trăm hiện nay ở nhóm tuổi này.
Về phần mình, chính quyền Nhật Bản đã trung thực hơn sau khi các nghiên cứu tại quốc gia này chứng minh rằng tiêm phòng cúm là một sự lãng phí tiền công quỹ. Nhật Bản đã áp dụng chương trình tiêm phòng cúm bắt buộc cho học sinh trong những năm 1980. Tuy nhiên, sau hai nghiên cứu quy mô lớn, bao gồm trẻ em từ bốn thành phố và tỷ lệ tiêm chủng khác nhau, cho thấy rằng các mũi tiêm không có tác dụng đối với bệnh cúm theo mùa, việc tiêm chủng bắt buộc đã bị dừng lại vào năm 1987. Trên thực tế, hai năm sau, người ta phát hiện ra rằng chỉ có 20 phần trăm dân số nói chung chọn tiêm vắc-xin cúm theo mùa.
Nhiều nhà sản xuất vắc-xin nuôi cấy vắc-xin, bao gồm vi-rút sống, trong trứng gà. Khi tiêm vào cơ thể, vắc-xin có thể gây ra các tác dụng phụ như đỏ và đau tại chỗ tiêm và một dạng cúm nhẹ. Các biến chứng rất nghiêm trọng có thể xảy ra ở những người đang dùng thuốc ức chế miễn dịch hoặc mắc bệnh tim. Nếu bạn bị dị ứng với trứng, tiêm vắc-xin cúm cũng có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe của bạn. Tất nhiên, nếu một người có bệnh lý tim hoặc phổi từ trước tử vong sau khi tiêm vắc-xin cúm, các bác sĩ sẽ đổ lỗi cho bệnh lý gây ra cái chết của người đó, chứ không phải vắc-xin cúm.
Đối với một người khỏe mạnh bình thường, việc mắc cúm không hề nghiêm trọng. Ngược lại, nó có thể giúp tăng cường khả năng miễn dịch tự nhiên, ngay cả khi gặp phải các chủng virus cúm mới trong tương lai. Chính lý do mà tự nhiên tạo ra những dạng virus mới này hàng năm và lây lan chúng đúng thời điểm chính là để đảm bảo sự cân bằng sinh thái liên tục và khả năng miễn dịch mạnh mẽ ở cả thực vật, động vật và con người. Tuy nhiên, rất hiếm khi một người có nồng độ vitamin D ở mức tối ưu và gan, túi mật sạch sẽ lại bị cúm.
Bất kỳ ai dễ bị nhiễm trùng tái phát đều có nguy cơ bị nhiễm độc gan với hàng trăm viên sỏi tích tụ trong gan và túi mật. Sỏi mật, nơi ẩn náu của nhiều loại vi khuẩn và vi-rút truyền nhiễm, là nguồn gây ức chế miễn dịch liên tục. Việc làm sạch gan và túi mật khỏi tất cả các loại sỏi mật (bao gồm cả sỏi mật trong gan và sỏi mật vôi hóa trong túi mật) mang lại khả năng bảo vệ tốt nhất chống lại mọi loại nhiễm trùng. Những người đã làm sạch gan theo cách này cho biết họ không bao giờ bị cảm lạnh hoặc cúm nữa.
Vắc-xin virus cúm được sử dụng cho đến năm 2002 chứa virus 'sống' và đã gây ra quá nhiều phản ứng phụ nghiêm trọng đến mức phải chế tạo vắc-xin mới. Công thức mới cho vắc-xin cúm được gọi là 'subvirion', về cơ bản là một loại virus bị cắt xén, 'pha trộn, ghép nối và nghiền nát' cho đến khi chỉ còn lại những mảnh vụn của virus ban đầu. Điều này không hề làm cho virus kém nguy hiểm hơn. Trên thực tế, các kháng nguyên hoặc protein lạ trong vắc-xin, mà cơ thể buộc phải sản xuất kháng thể, vẫn độc hại và gây hại như virus sống.
Bên cạnh subvirion, rất nhiều chất khác cũng được thêm vào vắc-xin cúm, hầu hết trong số đó bạn không bao giờ muốn đưa vào cơ thể một cách có ý thức.
Chúng bao gồm:
Kháng nguyên ngưng kết hồng cầu gây ra tình trạng vón cục của các tế bào hồng cầu, dẫn đến bệnh tim mạch.
Enzym neuraminidase có tác dụng cắt axit neuraminic ra khỏi màng tế bào, làm suy yếu hàng nghìn tỷ màng tế bào trong cơ thể.
Một chất kết tinh màu trắng gọi là allantoin, một sản phẩm thải độc hại từ động vật. Do hàm lượng nitơ cao, allantoin được sử dụng làm phân bón; nó gây ra sỏi thận và sỏi bàng quang ở người.
Gentamicin, một loại kháng sinh phổ rộng, được thêm vào mỗi quả trứng gà có phôi để ức chế sự phát triển của vi khuẩn (vắc-xin được nuôi cấy trong trứng gà).
Formaldehyde (chất gây ung thư), được sử dụng làm chất bảo quản và để vô hiệu hóa vi-rút.
Các hóa chất độc hại, tributyl phosphate và Polysorbate 80, U.S.P.
Nhựa, để loại bỏ "phần đáng kể" của tri butyl phosphate và Polysorbate 80
Thimerosal, một dẫn xuất của thủy ngân, dùng để bảo quản hỗn hợp vắc-xin.
Polyethylene glycol, một loại chất tương tự của ethylene glycol (chất chống đông); thường được dùng để đầu độc chó và các loài động vật ăn thịt cừu khác.
Isobutylphenyl ether, một hợp chất của ether; có đặc tính gây mê; gây quái thai, gây ra sự phát triển bất thường trước khi sinh. Nó cũng gây teo tinh hoàn ở động vật.
Các nhà sản xuất vắc-xin không thể đảm bảo rằng vắc-xin sẽ bảo vệ bạn khỏi bệnh cúm. Vì vậy, họ cẩn thận nói với bạn rằng vắc-xin "làm giảm khả năng nhiễm trùng; hoặc nếu bạn mắc bệnh, đó sẽ là một trường hợp nhẹ hơn". Một số người cũng bày tỏ sự không chắc chắn tương tự về vắc-xin của họ theo cách này: "Người ta biết chắc chắn rằng vắc-xin ngừa virus cúm, theo cấu trúc hiện tại, không hiệu quả đối với tất cả các chủng virus cúm có thể có." Có lẽ bài học rõ ràng nhất về tác động này đến từ Nhật Bản. Việc tiêm phòng cúm bắt buộc ở Nhật Bản (1967-1987) không mang lại lợi ích gì và thực tế còn gây ra nhiều ca tử vong liên quan đến cúm và vắc-xin hơn.
Tại sao bạn lại muốn giao phó sức khỏe của mình cho một hỗn hợp hóa chất độc hại khi ngay cả một hệ thống miễn dịch suy yếu cũng có khả năng bảo vệ bạn tốt hơn khỏi tác hại của một cơn cúm?
Hệ thống miễn dịch phức tạp của cơ thể chúng ta, đã tiến hóa qua hàng triệu năm, chắc chắn có thể bảo vệ bạn khỏi bệnh cúm tốt hơn bất kỳ thứ gì do con người tạo ra.
Tất cả những gì bạn cần là một chút chăm sóc cơ bản. Mặt khác, với mỗi mũi tiêm phòng cúm mới, hệ miễn dịch của bạn sẽ suy yếu dần và các tác dụng phụ trở nên rõ rệt và nghiêm trọng hơn. Hơn nữa, bạn vẫn có thể bị cúm. Danh sách sau đây bao gồm những hậu quả có thể xảy ra nếu bạn chọn tiêm chủng:
Các tác dụng phụ thường gặp nhất của việc tiêm chủng:
Đau nhức tại vị trí tiêm vắc-xin
Đau hoặc nhức
Ban đỏ
Viêm
Sự đổi màu da
Độ cứng
Một khối hoặc cục
Phản ứng quá mẫn bao gồm ngứa và nổi mề đay
Sốt
Khó chịu
Đau cơ
Đau khớp
Suy nhược
Ớn lạnh
Chóng mặt
Đau đầu
Bệnh hạch bạch huyết
Phát ban
Buồn nôn
Nôn mửa
Tiêu chảy
Viêm họng
Bệnh lý mạch máu
Viêm mạch
Sốc phản vệ ở bệnh nhân hen suyễn, có thể tử vong
Sốc phản vệ, có thể tử vong
>>Tiếp: 10.4 Thuyết âm mưu về vắc-xin cúm?
10.2 Cúm không lây truyền
>>Trước: 10.1 Bí mật đen tối, lạnh lẽo của mùa đông
Điều làm tôi ngạc nhiên là có một quan niệm gần như không thể lay chuyển rằng bệnh cúm có thể lây truyền từ người sang người, mặc dù các nghiên cứu đã chỉ ra rõ ràng rằng không phải ai tiếp xúc với cùng một loại vi-rút cũng bị nhiễm bệnh. Thông thường, chỉ 10% hoặc ít hơn số người tiếp xúc với virus xuất hiện triệu chứng. Trong 10% đó, cơ thể sử dụng virus để loại bỏ các chất độc hại tích tụ. Trong số còn lại, cơ thể có khả năng tự làm điều này mà không cần sự trợ giúp của dung môi.
Nhiều người sống hoàn toàn biệt lập nhưng vẫn mắc bệnh cúm theo mùa vì cơ thể họ tạo ra một chủng vi-rút có lợi nhất cho tự thanh lọc độc tố. Đó cũng là lý do tại sao virus cúm mùa biến đổi từ mùa này sang mùa khác. Điều này rất cần thiết cho sự sống còn của cơ thể con người. Nếu chỉ có một loại virus cúm, cơ thể sẽ phát triển khả năng miễn dịch và không bao giờ có cơ hội tự thanh lọc độc tố, nếu điều này trở nên cần thiết.
Hiện nay, CDC cho biết mỗi năm có 36.000 người Mỹ tử vong vì cúm. Và họ dùng "thống kê" này để hù dọa người dân tiêm vắc-xin cúm hàng năm. Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao con số này không hề thay đổi, dù chỉ một chữ số, qua từng năm chưa?
Sự thật là, như CDC đã thừa nhận trên trang web của mình, con số 36.000 được lấy từ một nghiên cứu năm 2003 được công bố trên Tạp chí Hiệp hội Dược phẩm Hoa Kỳ. Nghiên cứu này đã phân tích dữ liệu từ các mùa cúm trong suốt những năm 1990. Nghiên cứu đã xem xét các giấy chứng tử ghi nguyên nhân tử vong là "bệnh hô hấp hoặc tuần hoàn" và sử dụng "mô hình thống kê" để đưa ra con số 36.000 ca tử vong do cúm!
Đây hoàn toàn là phỏng đoán và thật kỳ lạ, xét đến việc khi các cơ quan y tế chính phủ muốn hạ thấp mức độ nghiêm trọng của một căn bệnh, họ lại dựa vào kết quả xét nghiệm được xác nhận. Tại sao lại không công bố một con số được đăng tải công khai trên trang web của họ? Hơn nữa, CDC đã không hề lặp lại phỏng đoán này (để cập nhật số liệu) trong gần một thập kỷ! Liệu điều này có liên quan gì đến việc "cúm" hiếm khi được ghi là nguyên nhân tử vong trên giấy chứng tử?
Một thực tế khác mà các cơ quan y tế công cộng không tính đến là ở nhiều người cao tuổi (tỷ lệ mắc cúm ở trẻ em và người cao tuổi cao hơn các nhóm tuổi khác), cúm thường là biến chứng thứ phát. Việc chỉ mắc cúm không thể buộc virus phải chịu trách nhiệm tử vong.
Nhưng CDC rất giỏi trong việc đưa ra những con số đáng báo động cho công chúng Mỹ. Vấn đề là, hầu hết các số liệu đều sai lệch. Tiến sĩ Tom Jefferson, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu vắc-xin tại Tổ chức Hợp tác Cơ sở Dữ liệu Cochrane quốc tế uy tín, đã chỉ ra một số dự đoán thú vị của CDC về các chủng cúm đã sai!
Sau khi tự thực hiện phân tích thống kê, ông phát hiện ra rằng đối với mùa cúm 1992-1993, CDC đã sai 84 phần trăm; đối với mùa cúm 1994-1995, sai 43 phần trăm đối với chủng chính và sai 87 phần trăm và 76 phần trăm đối với hai chủng khác; và đối với mùa cúm 1997-1998, sai 84 phần trăm.
Tuy nhiên, điều chúng ta biết chắc chắn là: 61.777 người tử vong vì viêm phổi mỗi năm tại Hoa Kỳ (số ca tử vong năm 2001: Dữ liệu cuối cùng năm 2001, NCHS, CDC). Viêm phổi là tình trạng tắc nghẽn đường hô hấp nghiêm trọng, đòi hỏi sự can thiệp của vi khuẩn. Tuy nhiên, vi khuẩn lại bị đổ lỗi là nguyên nhân gây bệnh. Tuy nhiên, các cơ quan y tế công cộng thường nhầm lẫn viêm phổi với cúm, khiến cuộc tranh luận về cúm càng thêm phức tạp.
Trong hầu hết các trường hợp, viêm phổi được điều trị bằng kháng sinh, ngăn cản quá trình giải độc phổi. Kháng sinh tiếp tục ức chế hệ thống phòng vệ tự nhiên của cơ thể, do đó ngăn cản cơ thể hấp thụ các hóa chất của thuốc. Khi bị nhiễm cúm và bệnh nhân tử vong do suy hô hấp, bác sĩ có thể dễ dàng cho rằng chính cúm đã giết chết bệnh nhân. Tuy nhiên, thực tế, bệnh nhân tử vong do tắc nghẽn nội tạng và hệ miễn dịch suy yếu.
Trẻ nhỏ có hệ thống miễn dịch bị suy yếu nghiêm trọng do vắc-xin và người lớn tuổi dùng ít nhất hai đến ba loại thuốc theo toa có tác dụng ức chế miễn dịch và tiêm vắc-xin cúm thường xuyên là những đối tượng dễ mắc các triệu chứng cúm nhất.
Duy trì hệ miễn dịch khỏe mạnh và cơ thể sạch sẽ thông qua việc thanh lọc gan, đại tràng và thận (xem chi tiết trong cuốn sách "The Amazing Liver and Gall-bladder Flush" của tôi) là cách tốt nhất chúng ta có thể làm để vượt qua giai đoạn khó khăn này khi ô nhiễm ngày càng gia tăng. Ngoài ra, hãy tránh xa bác sĩ, bệnh viện, phẫu thuật, thuốc men và vắc-xin, cũng như ngủ đủ giấc (tám đến chín tiếng mỗi đêm), ăn thực phẩm tươi ngon, bổ dưỡng, tránh thực phẩm chế biến sẵn và protein động vật, và tắm nắng đầy đủ để duy trì mức vitamin D.
>>Tiếp: 10.3 Vắc-xin cúm không có tác dụng
10.1 Bí mật đen tối, lạnh lẽo của mùa đông
>>Trước: 10. Chương 8 - A-tishoo! Của những lời nói dối
Nói như vậy, chúng ta hãy tập trung vào bệnh cúm mùa và những lời đồn đại khiến hàng triệu người lo sợ khi mùa đông đến gần, đặc biệt là ở các vùng ôn đới lạnh giá. Đối với người dân ở những quốc gia này, việc không tiêm vắc-xin cúm hàng năm gắn liền với nỗi sợ hãi và bị coi là lời mời gọi đến với bệnh tật sắp xảy ra, thậm chí là tử vong. Thiên nhiên khắc nghiệt để phù hợp với mục tiêu của mình, các nhà sản xuất vắc-xin đã tìm ra một cách thông minh để kiếm lợi nhuận.
Nhưng trước tiên, hãy cùng tìm hiểu lý do tại sao mọi người bị cúm. Câu trả lời chính xác nằm ở thời điểm trong năm - mùa đông - khi cúm bùng phát. Trái với suy nghĩ của nhiều người, không phải nhiệt độ giảm mà là việc thiếu ánh sáng mặt trời mới là nguyên nhân khiến cúm xuất hiện vào những tháng thời tiết ảm đạm này.
Virus cúm mùa lây lan trong cơ thể người là do hệ miễn dịch yếu - chứ không phải do thời tiết lạnh. Ngược lại, cơ thể yếu đi trong thời gian này do lượng vitamin D thấp, ánh sáng mặt trời yếu và mọi người thường ở trong nhà vào những tháng mùa thu và mùa đông.
Hãy nghĩ mà xem. Cúm không bùng phát vào mùa hè khi lượng vitamin D trong cơ thể tăng lên (là phản ứng lành mạnh khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời). Hệ miễn dịch yếu không thể giữ cho cơ thể sạch sẽ, và nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc virus trở nên cần thiết để làm sạch cơ thể. Phản ứng tự nhiên này trước một tình huống bất thường không phải là bệnh và cần được hỗ trợ, chứ không phải kìm hãm.
Vitamin D rất quan trọng cho sức khỏe. Mặc dù thường liên quan đến sự hấp thụ canxi và sức khỏe xương, nó còn đóng vai trò thiết yếu trong hai quá trình quan trọng khác của cơ thể - miễn dịch, phiên mã và biểu hiện gen.
Trong một nghiên cứu được thực hiện tại Khoa Y, Đại học Jikei Minato-ku ở Tokyo, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng vitamin D có hiệu quả phòng ngừa cúm ở trẻ em cao hơn 8% so với những trẻ không được bổ sung vitamin D. Tuy nhiên, khi so sánh với trẻ đã được tiêm vắc-xin, những chất bổ sung này có hiệu quả cao hơn 800%.
Nghiên cứu này là một trong số nhiều nghiên cứu ủng hộ việc tiếp xúc nhiều hơn với ánh nắng mặt trời để tăng cường khả năng miễn dịch. Nhưng trước tiên, vitamin D cần được kích hoạt trong cơ thể, và cách tốt nhất để làm điều này, một lần nữa, là tiếp xúc đủ ánh nắng mặt trời. Tức là, cho phép làn da của bạn tiếp xúc với dải tia cực tím có tác dụng chữa lành trong ánh nắng mặt trời.
Khi tia UV chiếu vào da, nó sẽ khởi động quá trình chuyển hóa vitamin D thành dạng hoạt động trong gan và thận. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây của Đại học Iowa được công bố trên Tạp chí Miễn dịch học đã phát hiện ra rằng vitamin D cũng có thể được kích hoạt trong các tế bào phổi, đặc biệt là ở đường thở.
Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy mối liên hệ giữa vitamin D được sản xuất trong đường dẫn khí của phổi và sự hoạt hóa của hai gen giúp ngăn ngừa nhiễm trùng. Trong khi một gen biểu hiện một protein gọi là cathelicidin có thể tiêu diệt vi khuẩn, gen thứ hai sản xuất ra một loại protein giúp tế bào nhận biết các loại mầm bệnh khác.
Điều thú vị là các cơ quan khác được phát hiện có biểu hiện enzyme chuyển hóa Vitamin D thành dạng hoạt động là ruột, vú và tuyến tiền liệt. Trong một phát hiện thú vị, nhóm nghiên cứu cũng quan sát thấy một phần Vitamin D hoạt động tại chỗ. Nghĩa là, trong khi Vitamin D hoạt động được sản xuất bởi thận lưu thông trong máu, Vitamin D được chuyển hóa bởi các cơ quan khác không lưu thông và bảo vệ các cơ quan này khỏi bị nhiễm trùng.
Nghiên cứu cũng nhấn mạnh vai trò của Vitamin D trong việc kiểm soát tình trạng viêm, nếu kéo dài sẽ góp phần gây ra các bệnh tự miễn như bệnh đa xơ cứng và bệnh tiểu đường loại 1 cũng như một số bệnh ung thư.
Có rất nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng lượng vitamin D vừa đủ có tác dụng bảo vệ chống lại bệnh cúm và các bệnh đường hô hấp trên khác, đồng thời liên quan đến việc sản xuất một peptide kháng khuẩn gọi là cathelicidin. Nhưng peptide này còn làm được nhiều hơn thế nữa. Cathelicidin là một phân tử truyền tín hiệu trong hệ miễn dịch và đóng vai trò quan trọng trong khả năng miễn dịch chung của cơ thể.
Một số nghiên cứu về Vitamin D đã phát hiện ra rằng vitamin này làm giảm tác dụng của TNFa, một cytokine gây viêm. Các cytokine này rất cần thiết khi cơ thể đang cố gắng ngăn chặn nhiễm trùng. Tuy nhiên, nếu nồng độ TNFa đã luôn ở mức cao (như trong trường hợp béo phì, hen suyễn, viêm khớp và các rối loạn tự miễn), Vitamin D sẽ làm giảm nồng độ TNFa trong cơ thể. Do đó, khi cần tăng nồng độ này, chẳng hạn như trong trường hợp nhiễm virus, cơ thể sẽ tự động làm điều đó.
Lợi ích của Vitamin D không thể nào bàn cãi. Các nhà khoa học Nhật Bản, những người đã công bố phát hiện của mình trên Tạp chí Dinh dưỡng Lâm sàng Hoa Kỳ, phát hiện ra rằng trong khi thuốc kháng vi-rút zanamivir và oseltamivir làm giảm 8% nguy cơ mắc bệnh cúm ở trẻ em, thì việc tiếp xúc với Vitamin D có thể làm giảm 50%.
Việc hấp thụ đủ lượng vitamin D thông qua tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và các chất bổ sung cũng đồng nghĩa với việc xương và răng chắc khỏe hơn, hệ miễn dịch được điều hòa tốt và giảm nguy cơ mắc bệnh tim, rối loạn tự miễn và ung thư. Hơn nữa, vitamin D từ ánh nắng mặt trời không gây ra tác dụng phụ.
Vắc-xin không thể làm được như vậy.
>>Tiếp: 10.2 Cúm không lây truyền
10. Chương 8 - A-tishoo! Của những lời nói dối
>>Trước: 9.11 Từ S
Trước khi thảo luận về cúm mùa, hãy quay lại tiền đề "vi trùng gây bệnh". Bắt đầu từ Louis Pasteur, người đã đề xuất thuyết vi trùng này vào thế kỷ 19, cho đến y học phương Tây, chúng ta đã bị dẫn dắt vào niềm tin rằng các tác nhân gây bệnh - đủ loại vi khuẩn, bao gồm cả vi khuẩn và vi-rút - luôn chực chờ tấn công và gây bệnh cho chúng ta.
Giả định thứ hai là sự hiện diện của một loại virus trong cơ thể người ngụ ý rằng người đó đã mắc một căn bệnh đặc trưng của loại virus đó. Việc vẽ ra một bức tranh về "virus chết người" hoàn toàn là lối suy nghĩ thời trung cổ. Thật sai lầm khi cho rằng khi một loại virus (hay đúng hơn là kháng thể chống lại một loại virus được cho là) hiện diện ở một người đã chết vì một căn bệnh thì virus đó đã giết chết người đó.
Và dường như không chỉ sự hiện diện của virus mới gợi ý rằng một người đã bị nhiễm bệnh. Đây là một điều đáng chú ý. Bạn có biết rằng xét nghiệm HIV không phải xét nghiệm virus HIV mà là xét nghiệm sự hiện diện của kháng thể kháng virus không? Kháng thể tồn tại để chống lại bệnh tật hoặc chữa lành một người, và sự hiện diện của chúng trong cơ thể không có nghĩa là người đó đã mắc bệnh. Tuy nhiên, khi xét nghiệm HIV phát hiện sự hiện diện của kháng thể, người đó được xác định là đã nhiễm virus HIV.
Tuy nhiên, thực tế đây là điều mà y học gọi là dương tính giả (có vẻ như là HIV nhưng không phải).
Trong cuốn sách Chấm dứt huyền thoại về AIDS, tôi trích dẫn nghiên cứu cho thấy gần 95 phần trăm chẩn đoán HIV là dương tính giả, hủy hoại và phá hủy cuộc sống của những người được chẩn đoán mắc bệnh này.
Ngoài ra, những người được tiêm vắc-xin phòng ngừa vi-rút HIV chắc chắn sẽ có kết quả xét nghiệm HIV dương tính trong các lần xét nghiệm tiếp theo vì vắc-xin được thiết kế để giúp cơ thể sản xuất kháng thể chống lại vi-rút.
Đây là một thủ thuật thông minh được các cơ sở chẩn đoán và các công ty dược phẩm sử dụng, những người được hưởng lợi đáng kể vì bệnh nhân HIV thường được kê đơn thuốc đắt tiền, dùng suốt đời. Thật thông minh phải không?
Ngoài ra, khi các bác sĩ phát hiện virus trong cơ thể bệnh nhân AIDS, họ kết luận rằng bệnh nhân đã chết vì AIDS. Nhưng hiện nay có hàng chục bệnh liên quan đến AIDS, về cơ bản là sự kết hợp của các tình trạng như viêm phổi hoặc hội chứng suy mòn châu Phi (African wasting disorder) và kháng thể đặc hiệu với một loại virus được cho là (HIV).
Một người tử vong vì viêm phổi với kết quả xét nghiệm HIV dương tính được mặc định là tử vong do AIDS mặc dù chưa bao giờ có bằng chứng chứng minh HIV có thể gây ra AIDS. Và xin nhắc lại, ngay cả Tiến sĩ Luc Antoine Montagnier, người phát hiện ra Virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV), cũng nói rằng HIV không thể tự gây ra AIDS. Ông cho rằng HIV vô hại và không cần điều trị, và điều quan trọng là phải chú trọng đến vệ sinh, nước sạch và dinh dưỡng.
Ý tôi muốn nói là virus hiện diện trong cơ thể chúng ta là có lý do. Có rất nhiều loại virus hiện diện, ngay cả một số loại "chết người" - mọi lúc mà chúng ta không hề hay biết. Và chúng hiện diện để chúng ta thực hiện những chức năng cụ thể - những mảnh protein trơ này giúp cơ thể tự chữa lành, giống như vi khuẩn và nấm giúp cơ thể phân hủy các tế bào bị tổn thương hoặc chết.
Khi cơ thể bị tổn thương và suy yếu, những vi khuẩn này được kích hoạt và giúp cơ thể tự chữa lành theo nhiều cách khác nhau. Chúng bắt đầu ăn các tế bào chết và mảnh vụn; chúng tham gia sản xuất các chất hóa học để bù đắp cho các quá trình bị thiếu hụt và, như trong trường hợp ung thư, chúng sản sinh thêm tế bào để "bù đắp" cho các mô bị tổn thương.
Virus thường hoạt động như dung môi hòa tan các hóa chất độc hại, thậm chí cả kim loại nặng độc hại và các chất ô nhiễm khác. Càng nhiều độc tố trong cơ thể, cơ thể càng dễ sản xuất các protein này. Do đó, bệnh tật là dấu hiệu cho thấy các quá trình độc hại đã vượt quá khả năng xử lý của cơ thể.
Hơn nữa, là những hạt protein trơ, virus không có khả năng sinh sản. Chúng cần vật chủ để sinh sản. Vật chủ là cơ thể người hoặc động vật. Cơ thể người rất thông minh và không có chương trình sinh học nào khiến nó tự sát. Nếu nó sinh sản những mảnh protein như vậy ('virus'), thì nó làm vậy là có lý do. Gọi chúng là 'virus chết người' thì thật là cường điệu, nói một cách nhẹ nhàng.
Vì vậy, khi một người bị bệnh, không phải virus gây ra bệnh. Nguyên nhân gây bệnh nằm ở nơi khác. Virus và vi khuẩn chỉ đơn giản là đang cố gắng hỗ trợ. Các triệu chứng do hoạt động của chúng chỉ là tín hiệu cho thấy cơ thể đang cố gắng tự chữa lành.
Đây là một phép so sánh. Nếu một quả táo rơi từ trên cây xuống và bị dập hoặc hư hỏng, liệu một người thông minh có cho rằng quả táo đang bị nhiễm và chết bởi vi khuẩn gây chết người không? Câu trả lời là không, bởi vì theo lẽ thường, vi khuẩn sẽ tự phân hủy phần bị hư hỏng của quả táo vì nó không còn chức năng gì nữa, tức là không còn là nguồn thức ăn nữa.
Tương tự như vậy, nếu một số tế bào trong cơ thể bị tổn thương do tắc nghẽn bên trong, thiếu oxy, thiếu vitamin D do thiếu tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, thói quen ngủ không điều độ, tiêu thụ đồ ăn vặt ức chế miễn dịch, thì việc các loại vi khuẩn đặc hiệu tế bào tương tự xâm nhập vào cơ thể là điều hoàn toàn tự nhiên và tiếp tục gây tổn hại cũng như phân hủy các tế bào yếu ớt đã bị tổn thương này vì chúng không còn hữu ích nữa.
Khi một người bị nhiễm độc ngày càng nhiều (qua thức ăn, không khí, nước, thuốc, v.v.), chúng ta cũng có thể dự đoán sẽ tìm thấy sự hiện diện quá mức của các mảnh protein này, được gọi sai là virus, trong quá trình khám nghiệm tử thi. Nếu một con vật cưng chết và chủ của nó mắc bệnh đa xơ cứng hoặc hội chứng mệt mỏi mãn tính, chẳng phải trước tiên chúng ta nên hỏi xem cả hai đã tiếp xúc với loại độc tố nào khiến cơ thể phải dùng đến cơ chế phòng vệ cực đoan như sản xuất hàng loạt các mảnh protein cần thiết để chống lại các độc tố này hay sao? Liệu cả hai có cùng hít thở không khí ô nhiễm do giao thông đông đúc trên một con phố đông đúc hay do một nhà máy hóa chất gần đó tạo ra không?
Tất nhiên, khám nghiệm tử thi sẽ phát hiện một lượng lớn kháng thể đặc hiệu với những độc tố đặc hiệu đó trong máu của con vật bị bệnh và chủ của nó. Việc đổ lỗi cho một loại virus trơ, vô tri vô giác giết chết chúng là phi khoa học, gây hiểu lầm và vô trách nhiệm, và việc gieo rắc nỗi sợ hãi về một đại dịch virus chết người sắp xảy ra nên được giao cho những kẻ kiếm sống bằng cách lừa dối quần chúng.
Nỗi sợ hãi làm suy yếu hệ miễn dịch. Đó là sự thật. Tôi nghi ngờ ý đồ của bất kỳ ai cố tình lan truyền thông tin sai lệch như vậy, với lý do muốn bảo vệ chúng ta, trong khi sự hoảng loạn chẳng mang lại lợi ích gì.
>>Tiếp: 10.1 Bí mật đen tối, lạnh lẽo của mùa đông
9.11 Từ S
>>Trước: 9.10 Trên Đường cao tốc
Cuối cùng, còn có từ S - squalene. Đây là một chất tự nhiên có trong cơ thể, được tìm thấy trong não bộ và hệ thần kinh. Squalene là một chất lành mạnh, có đặc tính chống oxy hóa khi được sản sinh tự nhiên. Đây là một chất dầu cũng có trong dầu ô liu và dầu cây rum, và các nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa squalene với việc giảm nguy cơ ung thư.
Cho đến nay mọi thứ vẫn tốt. Giờ đây, khi các nhà sản xuất vắc-xin Novartis và Glaxo-SmithKline quyết định đưa squalene vào vắc-xin H1N1 của họ, điều này đã gây ra một làn sóng phẫn nộ trong cộng đồng y tế. Khi hóa chất gốc dầu này được sử dụng trong vắc-xin, nó được gọi là tá dược, với mục đích duy nhất là tăng tốc độ hoạt động của thuốc.
Điều này có nghĩa là squalene tăng cường hoặc cường điệu hóa phản ứng miễn dịch với vắc-xin để khiến nó "hiệu quả hơn". Một lý do khác khiến squalene được sử dụng trong vắc-xin là để nhiều kháng nguyên hơn (virus bất hoạt hoặc virus bị làm yếu/giảm độc lực được sử dụng trong vắc-xin) có thể được truyền đi. Vắc-xin mạnh hơn đồng nghĩa với việc cần ít kháng nguyên hơn trong mỗi liều. Nhiều kháng nguyên hơn đồng nghĩa với nhiều vắc-xin hơn, và nhiều vắc-xin hơn đồng nghĩa với việc không còn tình trạng thiếu hụt vắc-xin, và do đó, các công ty dược phẩm lớn sẽ có nhiều tiền hơn trong ngân hàng.
Nhưng tại sao một thứ vốn làm giảm nguy cơ ung thư lại có thể gây hại, thậm chí có khả năng gây tử vong - khi được đưa vào vắc-xin? Câu trả lời nằm ở đường đưa nó vào cơ thể. Khi được tiêm (thay vì được đưa vào cơ thể qua đường ăn uống và do đó được đưa vào cơ thể một cách tự nhiên), cơ thể sẽ coi squalene là kẻ thù và bắt đầu tấn công nó. Vấn đề là sau đó, cơ thể bắt đầu coi tất cả squalene, bất kể nguồn gốc của nó, là kẻ thù.
Hệ thống miễn dịch sẽ tấn công và tiêu diệt chất này ở bất cứ nơi nào nó tìm thấy trong cơ thể, về cơ bản đây là một phản ứng tự miễn dịch. Đây là lý do tại sao squalene và một số chất khác trong vắc-xin có liên quan đến các rối loạn tự miễn dịch như GBS.
Squalene là thủ phạm hiện đã được xác định là có liên quan đến các chứng rối loạn tự miễn dịch tàn khốc mà hàng ngàn cựu chiến binh Chiến tranh vùng Vịnh mắc phải khi tham gia Chiến dịch Lá chắn Sa mạc và Bão táp Sa mạc Vịnh Ba Tư. Lính Mỹ đã nhận được chất bổ trợ trong vắc-xin phòng bệnh than mà họ bị ép tiêm.
Novartis (M59) và GlaxoSmithKline (ASO3) là hai công ty dược phẩm sử dụng squalene trong vắc-xin cúm lợn của họ. Mặc dù đã được phê duyệt sử dụng ở châu Âu, tá dược nguy hiểm này vẫn chưa được bật đèn xanh ở Mỹ, nhờ sự cảnh giác của công chúng. Tuy nhiên, người dân Mỹ có lý do để lo ngại: Chính phủ Mỹ đã mua tá dược trị giá hơn một tỷ đô la để dự trữ phòng trường hợp cần phải ban bố tình trạng Ủy quyền sử dụng khẩn cấp - Emergency Use Authorization (EUA). Nói cách khác, chính phủ Hoa Kỳ đang ngồi trên một quả bom sinh học chết người.
Ngay cả khi người ta tin rằng squalene chưa được sử dụng trong vắc-xin ở Mỹ, thì thực tế vẫn là hàng triệu người ở châu Âu đã tiếp nhận chất nguy hiểm này. Trong những đợt tiêm chủng hàng loạt như dây chuyền lắp ráp trong "đại dịch" cúm lợn, không có cách nào để biết chính xác có bao nhiêu hàng trăm, hàng ngàn trẻ em và thanh thiếu niên hiện đang có nguy cơ mắc các rối loạn tự miễn dịch.
Nếu bạn nghĩ rằng cúm lợn đã là chuyện quá khứ và chúng ta có thể bước tiếp, hãy nghĩ lại, đặc biệt nếu bạn đang cân nhắc tiêm vắc-xin cúm mùa. Mặc dù không có dấu hiệu nào cho thấy chúng ta sẽ sớm phải đối mặt với một đại dịch cúm lợn khác, nhưng vắc-xin cúm lợn H1N1 chưa được thử nghiệm đang được đưa vào chương trình tiêm chủng cúm hàng năm vào mùa đông năm nay (2010-2011).
Điều này rất hợp lý, xét đến nhu cầu giảm lượng vắc-xin dự trữ khổng lồ mà các chính phủ đã bị dụ dỗ đặt hàng vào năm ngoái. Các nhóm đối tượng được nhắm đến trong chiến dịch tiêm chủng mới cũng là những người sẽ gặp nhiều tác dụng phụ nhất, cụ thể là người cao tuổi, trẻ em và những người mắc các bệnh như bệnh tim, bệnh hô hấp và tiểu đường.
Tất nhiên, việc một nghiên cứu mới được công bố trên Tạp chí Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ cung cấp bằng chứng cho thấy virus cúm H1N1 năm 2009 có nguy cơ gây ra các biến chứng nghiêm trọng thấp hơn đáng kể so với các đợt bùng phát cúm gần đây khác không ảnh hưởng đến các nhà hoạch định chính sách y tế. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Y khoa Edward A. Belongia và các cộng sự, cúm H1N1 năm 2009 không làm tăng số ca nhập viện và viêm phổi.
Thay vì tư vấn cho công chúng cách phòng ngừa cúm thông qua các phương pháp tăng cường miễn dịch đã được nghiên cứu kỹ lưỡng và kiểm chứng theo thời gian, các cơ quan bảo vệ sức khỏe chỉ đơn giản kêu gọi mọi người tiêm vắc-xin cúm chứa độc tố hàng năm. Các biện pháp tăng cường miễn dịch tự nhiên bao gồm phục hồi lượng vitamin D bị thiếu hụt thông qua việc thường xuyên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời mà không cần bảo vệ, sử dụng chiết xuất cây trúc đào, cây cúc tím, cây Pau d'arco, cây suma, cây hoàng kỳ, Nấm dược liệu, Beta glucan, Lô hội, Bạc keo, chiết xuất lá ô liu, tinh dầu oregano núi hoang dã, nghệ, dầu hạt đen (Nigella sativa), Thực phẩm bổ sung khoáng chất tổng hợp (MMS) hoặc chiết xuất hạt bưởi. (Tôi đã thảo luận thêm về điều này trong Chương 9: Toàn bộ sự thật).
9.10 Trên Đường cao tốc
>>Trước: 9.9 Hậu quả của đại dịch
Điều gì sẽ xảy ra khi vắc-xin và các loại thuốc khác được phê duyệt nhanh chóng? Chúng ta vừa thảo luận về vắc-xin "mô phỏng" và việc thiếu hoàn toàn các thử nghiệm lâm sàng. Vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000, khoảng hai chục loại thuốc điều trị ung thư đã được FDA phê duyệt nhanh chóng. Hàng ngàn bệnh nhân ung thư đã được điều trị bằng các loại thuốc thử nghiệm này, đặc biệt là những bệnh nhân giai đoạn cuối.
Làm sao có thể đánh giá hiệu quả của những loại thuốc này khi chúng chỉ được thử nghiệm trên một mẫu rất nhỏ để xin phê duyệt vội vàng? Hơn nữa, độc tính của một loại thuốc - một thông số quan trọng được đánh giá trong quá trình phê duyệt - chỉ có thể được đánh giá sau một khoảng thời gian nhất định. Do đó, việc đẩy nhanh quá trình phê duyệt thuốc không tính đến các tác dụng phụ lâu dài mà nó có thể gây ra.
Trong một nghiên cứu của Trường Y khoa Đại học Northwestern, người ta phát hiện ra rằng thuốc điều trị ung thư Velcade chỉ được thử nghiệm trên 188 đối tượng, My-lotarg trên 142 đối tượng, Campath trên 93 đối tượng và Clolar trên 49 đối tượng trước khi được chấp thuận!
Việc cung cấp thuốc thử nghiệm cho bệnh nhân giai đoạn cuối và biện minh bằng cách nói rằng lợi ích có thể lớn hơn nhược điểm cũng giống như việc sử dụng những bệnh nhân này làm vật thí nghiệm.
Theo lời của Patricia Keegan, Giám đốc bộ phận Sản phẩm Ung thư Sinh học Trị liệu của FDA, thuốc điều trị ung thư cần được sử dụng với liều cao mới có hiệu quả. "Việc tìm ra một loại thuốc hoàn toàn an toàn có lẽ không phải là mục tiêu khả thi. Thực ra, vấn đề nằm ở sự cân bằng", bà nói.
Người ta thường nghĩ rằng khi thuốc được cấp phép lưu hành nhanh, FDA sẽ yêu cầu các nhà sản xuất thuốc tiến hành các nghiên cứu theo dõi dài hạn để đánh giá độ an toàn của thuốc. Mặc dù đây là một yêu cầu trên giấy tờ, nhưng thường không được thực thi. Chưa từng có trường hợp nào thuốc được cấp phép lưu hành nhanh bị thu hồi vì thiếu nghiên cứu theo dõi.
Thảm họa Vioxx (Xem Chương 5: Hậu quả của Vắc-xin) là một ví dụ rõ ràng về những gì xảy ra khi FDA làm ngơ trước việc thiếu kiểm tra nghiêm ngặt. Thuốc giảm đau được khuyến nghị cho bệnh nhân viêm khớp đã gây ra 38.000 trường hợp ngừng tim nghiêm trọng và tử vong, và cuối cùng đã bị thu hồi vào năm 2004.
Loại thuốc Merck này đã được đưa trở lại thị trường một năm sau đó, sau khi một hội đồng gồm 32 chuyên gia bỏ phiếu thông qua việc đưa nó trở lại thị trường. Sau đó, 10 trong số 32 cố vấn trong hội đồng FDA, những người cũng đã bỏ phiếu ủng hộ các loại thuốc gây tranh cãi là Celebrex và Bextra, có mối liên hệ tài chính chặt chẽ với các công ty sản xuất các loại thuốc này là Pfizer và Novartis.
Thật đáng buồn, nói một cách nhẹ nhàng, khi các tập đoàn dược phẩm lớn (Big Pharma) lại được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn trước những tội ác gây nguy hiểm đến tính mạng con người, và FDA cùng CDC lại trắng trợn trao cho các nhà sản xuất thuốc quyền tự do tiếp tục hành vi sai trái của họ. Vì vậy, vì lợi ích sức khỏe của bạn, hãy nghiêm túc dừng lại và tự hỏi liệu có cách nào tốt hơn để có được sức khỏe tốt hơn là để bản thân trở thành nạn nhân của những lời hứa hẹn dối trá của các công ty dược phẩm hay không.
Nói về việc thiếu thử nghiệm, vắc-xin H1N1 cũng là một loại vắc-xin chưa được thử nghiệm và không nhà sản xuất thuốc nào có thể khẳng định nó đã được chứng minh lâm sàng là an toàn. Không có gì ngạc nhiên khi sau khi vắc-xin H1N1 được đưa vào sử dụng rộng rãi, một loạt các phản ứng phụ đã được báo cáo từ nhiều quốc gia.
Ví dụ, tỉnh British Columbia ở Canada ghi nhận số ca phản ứng dị ứng nghiêm trọng và các trường hợp sốc phản vệ tăng gấp đôi. Người dân ở đây đã được tiêm Arepanrix, loại thuốc đã được cấp phép mặc dù thiếu thử nghiệm lâm sàng. Một số bác sĩ tin rằng số lượng lớn bất thường các trường hợp có tác dụng phụ nghiêm trọng là do một số người đã tiêm vắc-xin cúm lợn cùng với vắc-xin cúm mùa. Dù thế nào đi nữa, phản ứng này là do tiêm chủng.
Tại một tỉnh khác của Canada là Manitoba, vắc-xin Arepanrix của GlaxoSmithKline đã bị thu hồi sau khi các bác sĩ lo ngại về số lượng "phản ứng đe dọa tính mạng" sau khi tiêm vắc-xin.
Vắc-xin này gây ra quá nhiều phản ứng phản vệ đến mức hơn 170.000 liều của một lô vắc-xin đã phải ngừng sử dụng. Mặc dù các nhà chức trách đã cố gắng giảm nhẹ sự cố, nhưng thực tế là đã có 36 trường hợp phản ứng phụ nghiêm trọng được ghi nhận. Trong số đó có các phản ứng dị ứng nghiêm trọng xảy ra trong vòng vài phút sau khi tiêm vắc-xin H1N1. Ẩn mình trong số liệu thống kê này là một trường hợp tử vong.
Hãy xem những hướng dẫn gây sốc trên tờ hướng dẫn sử dụng của Arepanrix và bạn sẽ không ngạc nhiên đâu. Các hướng dẫn thừa nhận rằng "chưa có kinh nghiệm lâm sàng nào về vắc-xin này hoặc vắc-xin so sánh của nó, H5N1, ở người cao tuổi, trẻ em hoặc thanh thiếu niên". Các thử nghiệm mà họ có dữ liệu chỉ dành cho người lớn khỏe mạnh từ 18-60 tuổi!
Nếu điều đó không mâu thuẫn, hãy xem xét điều này. Công ty thừa nhận rằng họ cũng không có dữ liệu về phụ nữ mang thai hoặc cho con bú. Tuy nhiên, các chính phủ trên toàn cầu đã và đang dụ dỗ và ép buộc trẻ em và phụ nữ mang thai tiêm vắc-xin Arepanrix.
Theo nhà sản xuất vắc-xin, các thử nghiệm lâm sàng để thu thập dữ liệu về Arepanrix đang diễn ra trong bối cảnh "các mũi tiêm hiện tại đang được thực hiện". Không cần phải đọc nhiều để hiểu ẩn ý. Nói cách khác, các đợt tiêm chủng hàng loạt sử dụng loại thuốc này chính xác là những thí nghiệm mà công ty cần để kiểm nghiệm thuốc. Chính phủ đã cho phép công ty tiếp cận hàng triệu người cả tin!
Và đúng vậy, ngành dược phẩm thậm chí còn có một thuật ngữ cho nó - "giám sát sau khi đưa ra thị trường", trong đó nhà sản xuất thuốc được phép gửi dữ liệu về tính an toàn và hiệu quả của thuốc khi thuốc được sử dụng làm thuốc thử nghiệm.
Canada không phải là quốc gia duy nhất nhận thấy vắc-xin này gây ra phản ứng phản vệ ở những người đã tiêm chủng. Vào tháng 11 năm 2009, Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ đã ban hành một bản ghi nhớ gửi đến các trung tâm tiêm chủng, yêu cầu họ chú ý đến "các tác dụng phụ đáng sợ" của loại vắc-xin này. Bản ghi nhớ này dường như được gửi sau khi một bác sĩ bị hôn mê sau khi tiêm vắc-xin H1N1.
Trong khi đó, tại Thụy Điển, có năm trường hợp tử vong được báo cáo và 350 báo cáo về các phản ứng bất lợi ngay sau khi tiêm vắc-xin Pandemrix gây nhiều tranh cãi. Riêng tại một trường học ở Thụy Điển, 130 học sinh đã báo cáo bị ốm sau đợt tiêm chủng vào ngày hôm trước. Ở một số quốc gia, các ca tử vong được báo cáo trong vòng vài giờ sau khi tiêm vắc-xin cúm lợn.
Co giật, buồn nôn và nôn dai dẳng là những triệu chứng ít được các bác sĩ phàn nàn nhất. Nhiều báo cáo từ khắp nơi trên thế giới bao gồm các triệu chứng giống GBS và liệt.
Bạn còn nhớ Jordan McFarland, cậu bé 14 tuổi đến từ Virginia, Mỹ, người có bức ảnh được đăng tải trên các phương tiện truyền thông khi được đưa ra khỏi bệnh viện sau khi tiêm vắc-xin H1N1 không? Cậu thiếu niên này được cho là đã mắc các triệu chứng giống GBS chỉ vài giờ sau khi tiêm vắc-xin.
Cũng có báo cáo về các trường hợp tử vong ở Thụy Điển, Nhật Bản và Trung Quốc. Theo các báo cáo này, một số người đã tử vong chỉ vài giờ sau khi tiêm vắc-xin cúm lợn. Trong số những người tử vong có một giáo viên Trung Quốc. Chính phủ đã ngay lập tức tạm dừng lô vắc-xin được tiêm liều nghi ngờ.
Giữa vô số báo cáo về phản ứng phụ ở Trung Quốc, một tờ báo Trung Quốc đã đưa tin hơn 1.200 trường hợp có tác dụng phụ, từ đau tay, phát ban và đau đầu đến sốc phản vệ và huyết áp giảm đột ngột.
>>Tiếp: 9.11 Từ S
9.9 Hậu quả của đại dịch
>>Trước: 9.8 Bão trong đĩa Petri
Một câu hỏi khác đang gây nhức nhối cho hàng loạt loại vắc-xin được tung ra trên khắp thế giới là: Liệu chúng có an toàn không? Nếu câu trả lời chưa rõ ràng, thì tôi xin nói thế này: Câu trả lời là "không" dứt khoát!
Có nhiều lý do tại sao những loại vắc-xin này không bao giờ nên được đưa vào cơ thể người. Ít nhất thì cũng không có bằng chứng nào cho thấy chúng thực sự hiệu quả. Tệ hơn nữa, những hỗn hợp hóa chất tổng hợp này được cho là đã gây ra một số ca tử vong trong đợt bùng phát năm 2009.
Nhưng trước khi bàn về vấn đề này, đây là một sự thật đáng lên án khác: Tất cả các nhà sản xuất vắc-xin được cấp phép sản xuất vắc-xin H1N1 đều được "xử lý nhanh". Nói một cách đơn giản, FDA Hoa Kỳ và cơ quan đồng cấp châu Âu, Cơ quan Dược phẩm Châu Âu (EMEA), đã vội vàng "bật đèn xanh" cho các công ty dược phẩm lớn sản xuất vắc-xin chưa được thử nghiệm lâm sàng.
Sử dụng sự hoảng loạn mà các cơ quan y tế công cộng đã tạo ra thành công như một vỏ bọc, các cơ quan này đã cho phép các nhà sản xuất vắc-xin Glaxo-SmithKline, Novartis, Sanofi Pasteur, CSL, Medimmune và Baxter - sản xuất hàng triệu liều đã được tiêm vào dân số trên toàn cầu mà không chắc chắn về hậu quả.
Chưa có nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có đối chứng nào được thực hiện trên các loại vắc-xin này, vậy mà các chính phủ vẫn tiến hành các chương trình tiêm chủng hàng loạt. Nhưng ngay khi lá cờ ca rô được giương lên, những lời phàn nàn đã bắt đầu xuất hiện.
Vắc-xin cúm lợn mới của Novartis, Celtura, nhắm vào phụ nữ và trẻ em, đã bị chính phủ Thụy Sĩ từ chối do lo ngại về an toàn. Có nghi ngờ rằng nhà sản xuất vắc-xin có thể đã đóng gói lại một loại vắc-xin năm 2008, loại vắc-xin đã giết chết hai chục người vô gia cư trong một cuộc thử nghiệm lâm sàng bất hợp pháp ở Ba Lan, và đã bán nó như một loại vắc-xin chống lại bệnh cúm lợn mới!
Một mối nguy hiểm khác là việc ba hãng vắc-xin lớn thu hồi hàng triệu liều ngay sau khi họ bắt đầu cung cấp sản phẩm. Medimmune đã thu hồi gần 5 triệu liều vắc-xin xịt mũi LAIV (Vắc-xin Cúm Sống Giảm Độc Lực) vào tháng 12 năm 2009 khi phát hiện hiệu lực của vắc-xin đã giảm. Vào thời điểm đó, chính phủ Hoa Kỳ đã đặt hàng 40 triệu liều LAIV.
Trong một thảm họa lớn khác, một tuần trước thảm họa Medimmune, Sanofi Pasteur đã thu hồi 800.000 ống tiêm chứa sẵn vắc-xin cúm lợn đơn giá khi phát hiện ra rằng liều vắc-xin dành cho trẻ em đã mất tác dụng.
Chỉ một tháng trước đó, GlaxoSmithKline đã thu hồi lô vắc-xin cúm lợn Pandemrix tháng 10 tại Canada sau khi có báo cáo về phản ứng phản vệ ở một trong số 20.000 người đã được tiêm loại thuốc này. Phản ứng phản vệ, xảy ra khi cơ thể bị sốc khi tiếp xúc với các chất lạ, có thể dẫn đến tử vong.
Dữ liệu từ các cơ quan y tế công cộng không dễ dàng được công chúng xem xét kỹ lưỡng - nhưng các tài liệu từ EMEA cho thấy các thử nghiệm lâm sàng do GlaxoSmithKline thực hiện trên Pandemrix cho thấy các rối loạn hệ thần kinh "rất phổ biến" ở những người đã dùng thuốc. Các rối loạn cơ xương và mô liên kết cũng "rất phổ biến" trong khi các rối loạn hệ máu và bạch huyết là "phổ biến".
Canada không phải là quốc gia duy nhất mà Pandemrix gặp phải sự phản đối gay gắt. Thụy Sĩ cũng từ chối mua vắc-xin này do những tác dụng phụ nghiêm trọng liên quan.
Làm thế nào các cơ quan y tế công cộng, được cho là cơ quan giám sát sức khỏe cộng đồng, lại cấp phép cho các loại thuốc như Pamdemrix? Đây là cách thức. Giống như Novartis trước đó và Baxter sau này, GlaxoSmithKline đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế đối với 'vắc-xin cúm đại dịch', WO2006100109A1, vào ngày 21 tháng 3 năm 2006. Sau đó, công ty đã nộp đơn lên EMEA để xin phép đưa loại thuốc này ra thị trường vào tháng 2 năm 2007.
Đây là đơn xin cấp phép cho một trò ảo thuật rất khéo léo được EMEA cho phép, giúp đẩy nhanh tiến độ sản xuất vắc-xin khi đại dịch thực sự bùng phát. Nó được gọi là vắc-xin 'mô phỏng'. Công ty đã nhận được sự chấp thuận vào tháng 5 năm 2008, đúng một năm trước khi 'đại dịch' cúm lợn bùng phát. Thật tiện lợi!
Nhưng thậm chí còn tiện lợi hơn là bản thân "vắc-xin mô phỏng". Theo trang web của EMEA, đây chính là bản chất của nó. "Vắc-xin cúm đại dịch mô phỏng là loại vắc-xin mô phỏng vắc-xin cúm đại dịch trong tương lai về thành phần và phương pháp sản xuất. Tuy nhiên, vì chủng vi-rút gây ra đại dịch chưa được biết rõ, nên vắc-xin mô phỏng chứa một chủng cúm khác. Đây là chủng không lưu hành ở người và con người chưa từng tiếp xúc với chủng này trong quá khứ. Điều này cho phép công ty thử nghiệm vắc-xin của mình để chuẩn bị cho bất kỳ đại dịch cúm nào có thể xảy ra trong tương lai, bằng cách thực hiện các nghiên cứu với vắc-xin mô phỏng để dự đoán phản ứng của mọi người với vắc-xin khi chủng gây ra đại dịch được đưa vào."
Vậy nên, khi một đại dịch hoặc dịch bệnh thực sự xảy ra, các nhà sản xuất vắc-xin chỉ cần thay đổi chủng vi-rút được sử dụng trong vắc-xin giả bằng chủng vi-rút gây ra dịch bệnh, và thật bất ngờ! Một loại vắc-xin mới đã được phê duyệt và sẵn sàng tiêm chủng cho hàng triệu người mà không hề hay biết.
Trong đơn gửi lên EMEA, GlaxoSmithKline đã đưa ra những thông tin sau về Pandemrix, thực ra là đủ lý do để cấm vắc-xin này. Tuy nhiên, công ty đã nhận được tín hiệu xanh.
"Chương trình dược lý an toàn: Không có nghiên cứu dược lý an toàn nào được thực hiện với vắc-xin Pandemrix"
"Tương tác thuốc dược lực học: Không có nghiên cứu nào được thực hiện"
"Tính gây ung thư: Không có nghiên cứu nào về tính gây ung thư được tiến hành, điều này phù hợp với Ghi chú hướng dẫn về thử nghiệm dược lý và độc tính tiền lâm sàng của vắc xin"
Pandemrix là một loại cocktail gây ra thảm họa y tế.
Nhưng dường như những lo ngại về an toàn của loại thuốc này còn sâu xa hơn. Theo bài báo vạch trần của tờ báo Anh, Daily Mail, chính phủ Anh đã có những nghi ngại rằng Pandemrix có thể gây ra Hội chứng Guillain-Barré (GBS), một bệnh thần kinh đôi khi gây tử vong có thể do vắc-xin gây ra.
GBS, gây ra tình trạng khó thở và tê liệt do thoái hóa bao myelin bao phủ các dây thần kinh, đã có liên quan rõ ràng đến vắc-xin liên quan đến thảm họa cúm lợn năm 1976 ở Hoa Kỳ (Xem Chương 4: Khối lượng tới hạn).
Vào ngày 29 tháng 7 năm 2009, Giáo sư Elizabeth Miller, Trưởng phòng Tiêm chủng của Cơ quan Bảo vệ Sức khỏe Vương quốc Anh, đã viết một lá thư mật gửi 600 bác sĩ thần kinh cấp cao, yêu cầu họ chú ý đến sự gia tăng các trường hợp mắc GBS ở những người đã được tiêm vắc-xin Pandemrix. Bức thư đặc biệt đề cập đến thảm họa năm 1976, khi một người tử vong do bệnh cúm lợn, 25 người đã tử vong vì GBS và ít nhất 300 người mắc bệnh.
Giáo sư Miller viết trong thư: "Tôi cảm thấy lo ngại khi chính phủ triển khai loại vắc-xin này mà không có bất kỳ ý tưởng rõ ràng nào về nguy cơ mắc GBS, nếu có. Tôi không muốn bất kỳ ai phải chịu đựng điều này. Tôi rất sợ tiêm vắc-xin cúm lợn, nếu điều này xảy ra lần nữa, đây là một căn bệnh đáng sợ và tôi nghĩ cần phải thực hiện thêm nhiều nghiên cứu về tác dụng của vắc-xin."
Kỳ lạ thay, bức thư mật được gửi đến 600 bác sĩ thần kinh ở Anh nhưng lại không được gửi đến các bác sĩ đa khoa, những người đang tự do tiêm vắc-xin Pandemrix cho hàng ngàn người dân. Kỳ lạ thay, mặc dù cơ quan y tế công cộng của chính phủ đã nêu lên những lo ngại này, nhưng không hề có cuộc điều tra hay thẩm vấn nào được tiến hành về loại vắc-xin này.
Không còn nghi ngờ gì nữa, vắc-xin cúm lợn đang được bán trên toàn thế giới là hỗn hợp nguy hiểm, thậm chí gây tử vong, gồm các hóa chất chưa được kiểm nghiệm có chứa vật liệu di truyền của virus. Tuy nhiên, vào thời điểm đỉnh điểm của "đại dịch", chính phủ Hoa Kỳ tuyên bố rằng trẻ em và phụ nữ mang thai sẽ là những đối tượng tuyến đầu cần được tiêm những loại thuốc này.
Trường học luôn là nơi cung cấp nguồn dân số bị giam cầm cho các công ty dược phẩm. Còn nơi nào khác có thể tập trung nhiều nạn nhân vô tội và tình nguyện đến thế để xét nghiệm? - và dịch cúm lợn năm 2009 cũng không ngoại lệ. Vậy nên, khi trẻ em xếp hàng, không biết số phận mình sẽ ra sao, chúng đã vô tình hiến thân cho những kẻ sản xuất vắc-xin vô đạo đức, biến trường học thành trung tâm xét nghiệm.
Không có gì ngạc nhiên khi những phụ nữ mang thai đã được tiêm vắc-xin phòng cúm lợn bắt đầu báo cáo bị sảy thai ngay sau khi tiêm.
Liệu CDC có đang nói dối về tính an toàn của vắc-xin và vẫn tiếp tục làm vậy không? Vào tháng 9 năm 2010, Liên minh Phụ nữ Quốc gia (NCOW) đã công bố dữ liệu từ hai nguồn khác nhau, chứng minh rằng vắc-xin H1N1 2009/2010 đã góp phần gây ra tới 3.587 trường hợp sảy thai và thậm chí tử vong. Mặc dù CDC đã biết về dữ liệu này, họ vẫn tiếp tục đảm bảo với phụ nữ mang thai, nhóm đối tượng chính của vắc-xin, và các nhà cung cấp vắc-xin rằng vắc-xin không gây ra rủi ro nào cho phụ nữ mang thai.
Hai nguồn dữ liệu này bao gồm dữ liệu từ cuộc khảo sát riêng của NCOW đối với phụ nữ mang thai từ 17-45 tuổi và Hệ thống Báo cáo Biến cố Bất lợi do Vắc-xin (VAERS). Không cần phải nói, trong cuộc họp của Ủy ban Cố vấn về Vắc-xin Trẻ em (ACCV) vào ngày 3 tháng 9 năm 2010, Eileen Danne-mann, Giám đốc NCOW, đã thông báo cho Tiến sĩ Marie McCormick, Chủ tịch Nhóm Công tác Đánh giá và Rủi ro Vắc-xin của CDC về những phát hiện gây sốc này lần thứ hai. Với đầy đủ thông tin về dữ liệu NCOW được công bố rộng rãi vào thời điểm đó, Tiến sĩ McCormick tuyên bố rằng hoàn toàn không có tác dụng phụ nào liên quan đến vắc-xin H1N1 ở phụ nữ mang thai trong năm 2009/10.
Dựa trên tuyên bố vô căn cứ và sai lầm của nhóm đánh giá rằng các loại vắc-xin này hoàn toàn an toàn cho phụ nữ mang thai, Ủy ban Cố vấn về Thực hành Tiêm chủng (ACIP) của CDC đã đưa ra khuyến nghị tiêm vắc-xin cúm 2010/11 cho tất cả mọi người, bao gồm cả phụ nữ mang thai. Trong báo cáo của mình, Dannemann lưu ý rằng vắc-xin cúm 2010/11 sắp tới chứa các thành phần tương tự liên quan đến việc giết chết những thai nhi này, thành phần vi-rút H1N1 và độc tố thần kinh thủy ngân (Thimerosal) cùng với hai chủng vi-rút khác.
Vào lần thứ ba, trong cuộc họp của Ủy ban tư vấn vắc-xin quốc gia (NVAC) vào ngày 14 tháng 9 năm 2010, Dannemann đã nộp dữ liệu lần thứ ba trong quá trình bình luận công khai và hỏi: "Tại sao Tiến sĩ McC-Cormick không tra cứu trong cơ sở dữ liệu VAERS?"
Báo cáo của NCOW nêu rõ: "Cần phải lập luận rằng CDC đã vô cùng tắc trách khi không thông báo cho các nhà cung cấp vắc-xin về dữ liệu VAERS sắp tới, trong khi các nhà cung cấp lại mù quáng tuân theo hướng dẫn 'tiêu chuẩn chăm sóc' của CDC để tiêm chủng cho tất cả phụ nữ mang thai trong năm 2009/2010. Hơn nữa, trước những phát hiện này và việc Tiến sĩ Marie McCormick của CDC cùng nhóm đánh giá rủi ro vắc-xin của bà cố tình che giấu những phát hiện này, việc Ủy ban Cố vấn về Thực hành Tiêm chủng (ACIP) của CDC khuyến nghị tiêm lại cùng loại vắc-xin này cho phụ nữ mang thai vào năm 2010/2011 có thể bị coi là hành vi cố ý vi phạm hơn là tắc trách nghiêm trọng - mà đúng hơn là hành vi sai trái cố ý."
Bất chấp bằng chứng rõ ràng về tác hại không thể khắc phục được do việc tiêm vắc-xin cho phụ nữ mang thai gây ra, cho đến nay vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy CDC và nhóm đánh giá của họ đang cân nhắc việc từ bỏ quan điểm của mình.
NCOW hiện không còn lựa chọn nào khác ngoài việc khuyến nghị CDC ít nhất phải tuân thủ cảnh báo của FDA/nhà sản xuất trên bao bì vắc-xin, trong đó nêu rõ rằng không nên tiêm vắc-xin cúm cho phụ nữ mang thai trừ khi thực sự cần thiết. NCOW đã công khai yêu cầu CDC sẽ "khuyến cáo tất cả các bác sĩ sản phụ khoa, nhà cung cấp vắc-xin và công chúng trong năm nay về các báo cáo của VAERS mùa trước về các ca tử vong ở thai nhi liên quan đến vắc-xin H1N1". Tuy nhiên, CDC khó có thể làm theo khuyến nghị của NCOW vì những khuyến nghị này sẽ phơi bày lập trường gian lận của họ.
Trẻ em và phụ nữ mang thai, cả hai đều là những nhóm dân số cực kỳ dễ bị tổn thương, đã bị nhắm mục tiêu một cách có chủ đích ngay cả khi các nhà sản xuất vắc-xin thừa nhận rằng họ không có dữ liệu an toàn nào để giải thích cho hành động man rợ này. Hơn nữa, Chính phủ ở nhiều quốc gia phát triển đã không làm gì để cảnh báo công dân về những mối nguy hiểm này. Nhưng tại sao họ lại làm vậy? Hãy đọc tiếp.
>>Tiếp: 9.10 Trên Đường cao tốc
9.8 Bão trong đĩa Petri
>>Trước: 9.7 Những người đứng đầu được yêu thích nhất của ngành dược phẩm
Có những cáo buộc rằng virus cúm lợn được sản xuất ở phòng thí nghiệm cùng với tin tức CDC đang tạo ra virus. Trước khi trả lời câu hỏi tại sao một cơ quan y tế công cộng lại muốn làm điều đó, có hai yếu tố chính bạn cần lưu ý. Thứ nhất, khoa học vẫn chưa hiểu rõ về cách virus tái tổ hợp và lây lan, và thứ hai, sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa các tập đoàn dược phẩm lớn và các cơ quan y tế công cộng thường không phải là ngẫu nhiên.
Trong một tuyên bố với giới truyền thông ngày 24 tháng 11 năm 2009, WHO đã nêu ra một câu hỏi kỳ lạ nhưng có vẻ hợp lý: điều gì sẽ xảy ra nếu virus cúm gia cầm H5N1 gây chết người năm 2003 kết hợp với virus H1N1 có khả năng lây truyền cao đã quét qua các châu lục vào năm 2009?
WHO tuyên bố rằng các ca cúm gia cầm mới đã xuất hiện ở Ai Cập, Indonesia và Việt Nam vào năm 2009, trùng khớp với thời điểm virus cúm lợn đang hoành hành. Do đó, cơ quan này cho biết có lý do để lo ngại rằng hai loại virus này có thể tạo ra một chủng lai nguy hiểm hơn H5N1 và dễ lây lan hơn N1N1.
Virus được biết là có khả năng "tái tổ hợp", tức là quá trình vật liệu di truyền từ nhiều loại virus trộn lẫn trong tế bào vật chủ để tạo ra một chủng mới mang đặc điểm của chủng ban đầu. Đây không phải là lần đầu tiên WHO nêu lên mối lo ngại về sự tái tổ hợp này. Cơ quan này đã từng nêu lên những lo ngại tương tự vào năm 2004, sau khi dịch cúm gia cầm bùng phát. Liệu đây có phải chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên?
Ngoài ra, thật kỳ lạ, đúng hai tháng trước khi WHO nói về một chủng lai nguy hiểm vào tháng 11 năm 2009, CDC đã thử nghiệm chính chủng lai đó! Liệu đây có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên không?
Sau đây là sự thật. Các nhà khoa học của CDC đã bắt đầu các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm của cơ quan, tiêm cả virus H1N1 và virus cúm gia cầm H5N1 gây chết người vào chồn sương để xem liệu chúng có thể "tái tổ hợp" hay không. Điều này đã được xác nhận bởi Michael Shaw, Phó Giám đốc Khoa học Phòng thí nghiệm của CDC thuộc bộ phận cúm của cơ quan.
Virus cúm gia cầm từng được cho là chỉ lây nhiễm cho gia cầm cho đến khi nó được phát hiện lây nhiễm cho người trong đợt bùng phát năm 2003 khiến khoảng 500 người mắc bệnh và hơn 250 người tử vong. Tỷ lệ tử vong là 60%. Vì vậy, dường như virus vốn được cho là chỉ giới hạn ở một loài duy nhất thực sự có thể lây nhiễm giữa các loài.
Tiếp theo, virus H1N1, vốn vẫn còn rất ít thông tin, được quan sát thấy đã lây nhiễm cho gà tây ở Chile. Điều này củng cố kết luận rằng chủng virus đặc biệt này có thể lây từ người sang chim.
Câu hỏi tiếp theo là: Liệu virus cúm lợn có phải được biến đổi gen không? Nói cách khác, nó có được tạo ra trong phòng thí nghiệm không? Đây là một câu hỏi đã làm nảy sinh vô số thuyết âm mưu, và sự thật là vẫn chưa có bằng chứng thuyết phục nào.
Nhưng có một vài yếu tố củng cố cho giả thuyết này. Thứ nhất, các công ty dược phẩm (còn nhớ "sự nhầm lẫn" của Baxter không?) và thậm chí cả CDC, như đã đề cập ở trên, đã và đang thử nghiệm với các loại virus chết người trong phòng thí nghiệm của họ, và đây chỉ là hai trường hợp được công chúng chú ý.
Có một lý do khác khiến việc tin rằng một loại virus chết người đã được cố tình phát tán là điều không khó. Có những nhóm nghị sĩ có ảnh hưởng (nhớ Henry Kissinger chứ?) đã tuyên bố rằng họ đặt mục tiêu giảm dân số thế giới tới 80%. Và dù nghe có vẻ cực đoan đến đâu, thực tế là các nhóm lợi ích quyền lực luôn tìm cách kiểm soát các quốc gia yếu hơn bằng kinh tế để nắm quyền kiểm soát tài nguyên thiên nhiên của họ, bên cạnh những thứ khác.
Tội ác chống lại loài người thì quá quen thuộc. Chẳng phải Đức Quốc xã đã từng thử nghiệm thuyết ưu sinh sao? Chẳng phải chính phủ Mỹ và Israel đã từng sử dụng vũ khí sinh học sao? Chẳng phải các cơ quan y tế công cộng toàn cầu đã từng sử dụng vắc-xin và các chiến dịch tiêm chủng hàng loạt như những phương tiện để đưa virus vào châu Phi và các quốc gia đang phát triển khác với hậu quả tàn khốc sao?
Một lý do khác để nghi ngờ là bản chất lai tạo của chủng virus H1N1 năm 2009, mà các nhà khoa học cho biết có chứa vật liệu di truyền từ các chủng virus cúm gia cầm Bắc Mỹ, cúm lợn châu Âu, cúm lợn châu Á và virus cúm theo mùa.
Mặc dù không thể loại lai này không tiến hóa tự nhiên, nhưng khả năng nó được biến đổi gen là hoàn toàn có thể. Chính phủ cùng với các công ty dược phẩm lớn đều có đủ phương tiện và động lực để làm điều này.
Đó chính xác là những gì đã diễn ra, và ngày 11 tháng 6 năm 2009 là một ngày trọng đại - ngày WHO nâng mức cảnh báo dịch bệnh lên Cấp độ 6, tức là "đại dịch". Tất nhiên, WHO không có bằng chứng rõ ràng hay lý do gì để thực hiện bước đi quyết định này, ngoại trừ việc gây ra sự hoảng loạn toàn cầu để phục vụ lợi ích kinh tế của các nhà sản xuất vắc-xin và tay sai chính trị của họ.
Nguyên nhân dẫn đến quyết định quan trọng này là gì? Vào tháng 4, khi dịch cúm lợn dường như đang suy yếu, đại diện cấp cao của các công ty vắc-xin hàng đầu đã gặp Tổng Giám đốc WHO Margaret Chan và Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki Moon tại trụ sở WHO ở Geneva vào tháng 5 năm 2009.
Lý do bề ngoài là để quyết định cách thức vận chuyển vắc-xin đến các nước đang phát triển. Mặt khác, chương trình nghị sự bí mật là để biện minh cho việc nâng mức dịch cúm lợn lên đại dịch cấp độ 6. Một khi công tắc cấp độ 6 được bật, các nhà sản xuất vắc-xin sẽ kiếm bộn tiền!
Khi dịch bệnh bắt đầu suy yếu, các nhà sản xuất vắc-xin đã hoảng loạn. Nhiều nhà sản xuất đã ký hợp đồng với một số quốc gia phát triển để cung cấp "vắc-xin phòng ngừa đại dịch" trong trường hợp đại dịch cấp độ 6. Ví dụ, Đức đã ký một hợp đồng tương tự với GlaxoSmithKline vào năm 2007.
Tương tự, một chính phủ khác cũng quá nhiệt tình là chính phủ Anh, với cố vấn khoa học chủ chốt, Giáo sư Roy Anderson, cũng nằm trong biên chế của Glaxo-SmithKline. Khoản thù lao hàng năm của Anderson từ nhà sản xuất vắc-xin này được cho là 177.000 đô la.
GlaxoSmithKline cũng đã liên hệ với chính phủ Đức. Vào tháng 6, một tháng trước khi công bố Cấp độ 6, công ty đã yêu cầu chính phủ Đức xác nhận rằng họ thực sự sẽ tôn trọng hợp đồng mua vắc-xin phòng đại dịch. Khi các tập đoàn dược phẩm lớn "hỏi", họ không bao giờ lịch sự!
Nhờ một số công trình điều tra mang tính đột phá, cùng với sự kiên trì và quyết tâm của nhiều người tìm kiếm sự thật và không gì khác ngoài sự thật về đợt bùng phát cúm lợn, những sự thật đáng lên án vẫn tiếp tục xuất hiện về mối liên hệ bất chính giữa WHO, Liên hợp quốc, các nước phát triển và các nhà sản xuất vắc-xin đã cùng nhau dàn dựng nên 'đại dịch' cúm lợn.
>>Tiếp: 9.9 Hậu quả của đại dịch
9.7 Những người đứng đầu được yêu thích nhất của ngành dược phẩm
>>Trước: 9.6 Tiền đeo mặt nạ
Tôi đã nhiều lần đề cập rằng truyền thông làm theo lệnh của các công ty dược phẩm lớn. Điều này không mới. Các giám đốc điều hành cấp cao trong chính phủ cũng như các chính trị gia thường chuyển sang hội đồng quản trị của các công ty dược phẩm, bao gồm cả các nhà sản xuất vắc-xin, và chỉ khi mối liên hệ này bị phơi bày, người ta mới hiểu tại sao chính phủ lại đưa ra một số quyết định nhất định, và làm thế nào, chẳng hạn, một thông báo chính sách, lại thực sự truy ngược về các nhà sản xuất vắc-xin, và cuối cùng điều đó mang lại lợi ích lớn cho những người liên quan.
Nhưng tại sao lại chỉ bôi nhọ danh dự của các chính trị gia? Những hành động vô lương tâm tương tự cũng được áp dụng cho các ông trùm truyền thông. Dưới đây là một số ví dụ điển hình về cách thức hoạt động của mối liên hệ giữa dược phẩm - truyền thông - vắc-xin - tiền bạc.
Bạn còn nhớ "sự thiếu hụt" đột ngột vắc-xin cúm từng được nhiều phương tiện truyền thông đưa tin vào tháng 10 năm 2009 không? Sự "thiếu hụt" này có thể bắt nguồn từ một cuộc họp kín do một nhóm tinh hoa gồm những người quyền lực và có ảnh hưởng, những người quyết định và chỉ đạo các chính sách xã hội, kinh tế, tài chính, dân số và các chính sách khác trên toàn cầu, tổ chức một cách ẩn danh.
Trong trường hợp này, tôi đang nói đến một tổ chức phi lợi nhuận (thật trớ trêu!) có tên là Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (CFR), những kẻ cầm đầu bao gồm các ông trùm truyền thông như Rupert Murdoch (News Corp, Fox News, Associated Press, Twentieth Century Fox, Time Warner), Thomas Glocer (Reuters News Service) và nhà báo đoạt giải Pulitzer Lau-rie Garrett.
Vào ngày 16 tháng 10 năm 2009, "Nhóm Nghiên cứu Đại dịch H1N1" của CFR đã họp tại New York. Cuộc họp do Garrett, người có công việc gắn liền với tập đoàn hóa dầu-dược phẩm, triệu tập. Cuộc họp được triệu tập sau khi một bộ phận công chúng - những người không tin hoặc nghi ngờ lời nói dối về "đại dịch" - bắt đầu đặt câu hỏi về "đại dịch" không hề có kết quả. Nhiều người bắt đầu đặt câu hỏi về nhu cầu "tiêm chủng" phòng cúm lợn và từ chối tiêm phòng.
Khi công chúng - và Internet - lên tiếng mạnh mẽ hơn, các nhà sản xuất vắc-xin bắt đầu lo lắng. Cần phải làm gì đó. Truyền thông, một thế lực có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến dư luận, phải được tích cực lôi kéo vào cuộc.
Không phải ngẫu nhiên mà "tin tức" về tình trạng thiếu hụt vắc-xin cúm nghiêm trọng lại xuất hiện một tuần sau cuộc họp của CFR. Ý tưởng là để tăng cường tình trạng thiếu hụt và tạo cớ công khai cho việc bán thêm vắc-xin. Nếu tuyên bố tình trạng khẩn cấp y tế quốc gia, công chúng sẽ nhắm mắt làm ngơ trước việc cấp phép nhanh chóng cho các công ty đã được cấp phép rộng rãi cho Glaxo-SmithKline, Novartis, CSL, Baxter, Sanofi Pasteur và các công ty khác để sản xuất vắc-xin cúm lợn.
Nhưng liệu mọi chuyện có đơn giản chỉ là mua đứt các ông trùm truyền thông? Liệu những người như Murdoch và Glocer có liên quan trực tiếp hơn đến vắc-xin cúm không? Có một chi tiết thú vị: Murdoch kiểm soát Viện Nghiên cứu Trẻ em Murdoch (MCRI) ở Úc, nơi đã tiến hành những xét nghiệm cúm lợn H1N1 đầu tiên trên trẻ em từ 6 tháng đến 8 tuổi.
Và một manh mối khác: James, con trai của Murdoch, là giám sát viên Hội đồng Quản trị của Glaxo-SmithKline. Mối liên hệ với Murdoch không chỉ dừng lại ở đó. Mẹ của Rupert Murdoch, Elizabeth, là một nhà tài trợ của Bệnh viện Phụ nữ Hoàng gia Victoria ở Melbourne, Úc. Đội ngũ nhân viên của bệnh viện đã hợp tác với CSL Pharmaceuticals để phát triển vắc-xin cúm lợn. Thuộc sở hữu của Merck & Co, CSL bị cáo buộc thử nghiệm vắc-xin cúm lợn thử nghiệm của họ trên phụ nữ mang thai mà không có đối tượng đối chứng. Các thử nghiệm an toàn của họ thiếu đối chứng giả dược hợp pháp và trốn tránh việc giám sát và thu thập dữ liệu dài hạn.
Còn Thomas Glocer, CEO của Reuters thì sao? Glocer cũng là thành viên Hội đồng Quản trị của Merck & Co và là thành viên của Đối tác Thành phố New York (PFNYC). Giống như CFR, PFNYC là một nhóm nghị sĩ khác gồm những cá nhân quyền lực có ảnh hưởng đến chính sách công, và những người được hưởng lợi chính là ngành công nghiệp dược phẩm. Họ làm điều này bằng cách thúc đẩy chương trình nghị sự về công nghệ sinh học và 'dược phẩm di truyền' trên toàn thế giới.
Và đoán xem ai là người sáng lập PFNYC? Không ai khác chính là David Rockefeller, người có chương trình nghị sự dân số quen thuộc với độc giả của cuốn sách này (Xem Chương 3: Có Âm Mưu Không?).
>>Tiếp: 9.8 Bão trong đĩa Petri
9.6 Tiền đeo mặt nạ
>>Trước: 9.5 Họ đã có một linh cảm
Nhưng trong khi mọi người đều thắc mắc về đại dịch chưa từng xảy ra, một số chính trị gia lại cười trên đường đến ngân hàng, trong số đó có cựu Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld.
Là một doanh nhân khôn ngoan và là bạn thân của Big Pharma, Rumsfeld đã kiếm được bộn tiền trên thị trường chứng khoán vào năm 2005 khi giá cổ phiếu của Tamiflu tăng vọt sau khi hướng dẫn năm 2004 của WHO được công bố.
Rumsfeld, chủ tịch của Gilead Sciences từ năm 1997 đến năm 2001 (Gilead đã phát triển Tamiflu và cấp phép cho Roche vào năm 1996), sở hữu ít nhất 5 triệu đô la cổ phiếu, tăng vọt từ 35 đô la lên 47 đô la vào tháng 4 năm 2005.
Một chính trị gia Hoa Kỳ khác cũng kiếm bộn tiền là cựu Ngoại trưởng George Shultz, người từng là thành viên hội đồng quản trị của Gilead. Ông Shultz đã bán hơn 7 triệu đô la cổ phiếu của công ty vào năm 2005.
Nhưng đó chưa phải là kết thúc cho tuần trăng mật của Tamiflu với thị trường chứng khoán. Để tạo ra ảo tưởng - thực ra là để đẩy giá cổ phiếu lên cao hơn nữa, Roche đã phải dùng đến những chiêu trò khá mạnh tay. Tháng 10 năm 2005, công ty tuyên bố sẽ không sản xuất thêm Tamiflu trừ khi chính phủ Hoa Kỳ đồng ý mua thêm. Nhưng rồi, cơn sốt mua sắm hoảng loạn đã giải quyết được vấn đề. Khi chính phủ mua thêm Tamiflu, Roche đành phải nhượng bộ và vẫn đạt được điều mình muốn.
Nhân tiện, mối quan hệ giữa Rumsfeld và Big Pharma còn sâu sắc hơn nhiều. Chính Rumsfeld, với tư cách là chủ tịch của G. D. Searle, đã thuyết phục FDA chấp thuận chất tạo ngọt nhân tạo gây nhiều tranh cãi aspartame. Được sử dụng rộng rãi trong thực phẩm chế biến và là "chất tạo ngọt cho bệnh nhân tiểu đường", aspartame là một tác nhân gây ung thư và trong trường hợp nghiêm trọng, có thể gây mù lòa và tử vong.
Nhưng các tác dụng phụ chết người không phải là mối lo ngại đối với các nhà hoạch định chính sách. Một nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Oxford được công bố trên tạp chí BMJ vào tháng 8 năm 2009 đã đặt ra câu hỏi về tính khả thi của việc sử dụng Tamiflu cho trẻ em. Nghiên cứu này dựa trên một nghiên cứu cho thấy nhược điểm nhiều hơn ưu điểm. Trọng tâm của nghiên cứu là các biến chứng ở trẻ em được sử dụng thuốc.
Tuy nhiên, chính phủ Hoa Kỳ, thông đồng với FDA, cần phải một lần nữa kích cầu Tamiflu sau khi cơn sốt mua sắm hoảng loạn năm 2005 lắng xuống. Cúm lợn là cái cớ. Lý do: Chỉ riêng năm 2006, chính phủ Hoa Kỳ đã chi 20 triệu đô la cho 2 tỷ liều Tamiflu và số thuốc này sắp hết hạn. Trong khi khuấy động một cơn bão truyền thông, chính phủ đã làm một việc khác. Để tự bảo vệ mình, họ đã thay đổi cảnh báo trên gói thuốc Tamiflu.
Năm 2006, FDA đã đưa ra cảnh báo: "Chúng tôi lo ngại rằng khi/nếu việc sử dụng loại thuốc này gia tăng ở Hoa Kỳ, có thể sẽ có ngày càng nhiều trường hợp gặp phải hậu quả bất lợi tại Hoa Kỳ." Cảnh báo này được đưa ra sau một số báo cáo về tình trạng mê sảng và tự tử ở trẻ em dưới 17 tuổi dùng Tamiflu. Các tác dụng phụ xảy ra trong vòng một hoặc hai ngày, bao gồm các cơn hoảng loạn, ảo tưởng, co giật, mê sảng, mất ý thức, trầm cảm và trong một số trường hợp là tự tử.
Sau đại dịch cúm lợn, cảnh báo này đã được giản lược thành: "Những người bị cúm, đặc biệt là trẻ em, có thể có nguy cơ tự gây thương tích và lú lẫn cao hơn ngay sau khi dùng Tamiflu và cần được theo dõi chặt chẽ để phát hiện các dấu hiệu bất thường về hành vi." Thật kỳ diệu phải không?
>>Tiếp: 9.7 Những người đứng đầu được yêu thích nhất của ngành dược phẩm
9.5 Họ đã có một linh cảm
>>Trước: 9.4 Tiền làm cho virus lây lan!
Vậy tại sao lại có sự cường điệu và hoảng loạn về cúm lợn nhiều năm trước khi virus này xuất hiện? Làm sao WHO biết trước nửa thập kỷ rằng sẽ có một "đại dịch" cúm nếu nó không được thiết kế?
Nguồn gốc của sự hoảng loạn bắt nguồn từ đợt bùng phát cúm gia cầm năm 2003. Đại dịch này - chủ yếu ở các loài chim, không phải ở người - đã bùng phát ở nhiều nước châu Á, nơi hàng triệu gia cầm bị nhiễm bệnh đã chết vì Chủng H5N1 thuộc họ virus cúm A. Hàng triệu con khác đã phải bị tiêu hủy để tránh bị con người tiêu thụ. Và vấn đề nằm ở đây: chỉ có 40 ca tử vong nghi ngờ do cúm gia cầm trong năm đó. Virus đơn giản là không chịu hợp tác!
Các nhà sản xuất vắc-xin và chính phủ các nước đang phát triển được cho là phải làm gì với số thuốc kháng vi-rút mà họ đã tích trữ trong thời gian xảy ra dịch cúm gia cầm? Đối với những người có địa vị cao, câu trả lời đã quá rõ ràng: gây ra một đại dịch.
Do đó, một năm sau khi các quốc gia như Việt Nam, Hàn Quốc và Thái Lan tiêu hủy gia cầm, WHO đã công bố hướng dẫn phòng ngừa đại dịch cúm. Thật tiện lợi, WHO thậm chí còn khuyến cáo chính phủ các nước trên thế giới dự trữ Tamiflu và Relenza trước giữa năm 2009, thời điểm cúm lợn xuất hiện.
Phải chăng chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên đến khó tin khi các công ty dược phẩm như GlaxoSmithKline đã chuẩn bị sẵn sàng ngay từ năm 2008 để sản xuất vắc-xin chống lại chủng H1N1 năm 2009? Trong một thông cáo báo chí ngày 15 tháng 5 năm 2009, công ty cho biết họ đã sẵn sàng đưa vào sản xuất ngay khi được cơ quan quản lý phê duyệt và đã nhận được đơn đặt hàng sơ bộ từ một số chính phủ có ý định tích trữ vắc-xin trước. Làm thế nào mà một công ty lớn về vắc-xin như GlaxoSmithKline lại có thể chuẩn bị kỹ lưỡng đến vậy trước cả năm?
Vương quốc Anh ban đầu đã đặt hàng 60 triệu liều, Pháp 60 triệu liều, Bỉ 12,6 triệu liều và Phần Lan 5,3 triệu liều kháng nguyên H1N1, chính phủ sẽ sử dụng cùng với hệ thống tá dược hiện có của GlaxoSmithKline.
Cuối cùng, Anh đã mua tới 110 triệu liều vắc-xin để tiêm chủng cho 80% dân số, mỗi người tiêm hai liều! Cuối cùng, họ chỉ tiêm được 6 triệu liều, tương đương 5% số lượng đã đặt hàng.
Không có gì ngạc nhiên khi các quốc gia giàu nhất thế giới hiện đang cố gắng bán tháo hàng tồn kho và thậm chí hủy bỏ các đơn đặt hàng. Ví dụ, Hà Lan đã đặt hàng 19 triệu liều để bán cho các nước khác, trong khi Đức, quốc gia đã đặt hàng 50 triệu liều, đang cố gắng hết sức để các nhà sản xuất vắc-xin cắt giảm một nửa số lượng này.
>>Tiếp: 9.6 Tiền đeo mặt nạ
9.4 Tiền làm cho virus lây lan!
>>Trước: 9.3 Hàng tỷ đô la trôi xuống cống
Chúng ta đã thảo luận về những cáo buộc của Wolfgang Wodarg ở phần trước của chương này. Những gì bạn sắp đọc xác nhận lời biện hộ của vị bác sĩ người Đức. Đó là một bài báo được đăng trên một tạp chí khoa học, không chỉ nhắm thẳng vào WHO.
Được công bố trên BMJ (Tạp chí Y khoa Anh) vào ngày 4 tháng 6 năm 2010, bài báo nêu rằng ba trong số 22 nhà khoa học trong nhóm đã soạn thảo các hướng dẫn về đại dịch cúm của WHO năm 2004 là nhân viên của các nhà sản xuất vắc-xin chủ chốt.
Tệ hơn nữa (và tại sao điều này không làm chúng ta ngạc nhiên?), cơ quan thế giới này đã không tiết lộ xung đột lợi ích này và tiếp tục chấp nhận các khuyến nghị của họ, điều này sau đó đã dẫn đến việc chính các công ty này gặt hái hàng tỷ đô la nhờ vào chính những hướng dẫn này, trong đó khuyến cáo các chính phủ mua (tích trữ) thuốc kháng vi-rút để chống lại các đại dịch cúm có thể xảy ra.
Trong một số công trình điều tra nổi bật của các tác giả BMJ (bao gồm cả Cục Báo chí Điều tra có trụ sở tại London, một tổ chức phi lợi nhuận), bằng chứng sau đây đã được đưa ra chống lại ba nhân vật chủ chốt:
Giáo sư Fred Hayden: Công ty tư vấn và bài giảng của ông được tài trợ bởi nhà sản xuất vắc-xin Thụy Sĩ Hoffman-La Roche (nhà sản xuất Tamiflu) và GlaxoSmithKline (Relenza) vào thời điểm ông viết hướng dẫn về thuốc kháng vi-rút cho WHO.
Mọi chuyện còn mù mờ hơn nữa. Hóa ra Giáo sư Hayden cũng là một trong những nhà nghiên cứu chính của một nghiên cứu do Roche tài trợ. Không có gì ngạc nhiên khi hướng dẫn của ông khẳng định Tamiflu sẽ giảm tới 60% số ca nhập viện do virus cúm. Công ty sau đó đã thu về hàng triệu đô la từ việc bán thuốc. Nhưng giờ thì đó đã là chuyện quá khứ.
Tiến sĩ Arnold Monto: Ông đã viết phụ lục của WHO về việc sử dụng vắc-xin trong thời kỳ đại dịch. Trong thời gian này, Tiến sĩ Monto đã nhận tiền từ cả Roche và GlaxoSmithKline cho công việc tư vấn của riêng mình.
Giáo sư Karl Nicholson: Ông là cố vấn không thể thiếu của WHO về đại dịch cúm. Giống như Hayden và Monto, ông cũng từng được cả Roche và GlaxoSmithKline tài trợ.
Bốn ngày sau khi BMJ công bố bài báo chỉ trích, WHO đã đưa ra phản hồi yếu ớt rằng khi tuyển dụng các chuyên gia vào hội đồng, WHO đã cân nhắc quyền riêng tư của họ so với "tính chặt chẽ của các hướng dẫn" đã được đưa ra để xem xét bên ngoài.
Theo Tổng Giám đốc WHO Margaret Chan, các quyết định của cơ quan này "không hề" bị ảnh hưởng bởi lợi ích thương mại hay bất kỳ mối liên hệ nào giữa các nhà khoa học với ngành công nghiệp dược phẩm. Giống như hầu hết các lời phủ nhận chính thức, lời phủ nhận này cũng không thể chứng minh điều ngược lại.
Bây giờ, hãy để tôi minh họa chính xác cách một "khuyến nghị" trực tiếp chuyển thành lợi nhuận cho một công ty dược phẩm. Hướng dẫn năm 2004 của WHO về đại dịch cúm đã khuyến cáo rõ ràng: "Các quốc gia đang cân nhắc sử dụng thuốc kháng vi-rút như một phần của phản ứng đại dịch sẽ cần phải dự trữ trước."
Các nhà sản xuất vắc-xin và chính phủ, những người có mối quan hệ cộng sinh thân thiết với các nhà sản xuất vắc-xin, không thể có một cuộc hẹn hò nào trắng trợn hơn thế này. Giả vờ bị bao vây bởi nỗi lo sợ và tỏ ra được trang bị đầy đủ, các cơ quan y tế công cộng ở nhiều quốc gia trên thế giới đã ngay lập tức bắt đầu mua Tamiflu và các loại thuốc kháng vi-rút khác với số lượng lớn - năm năm trước khi "đại dịch" cúm lợn bùng phát.
Còn cách nào khác để giải thích việc một số nhà sản xuất vắc-xin lớn nhất thế giới đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế vắc-xin cúm lợn ngay cả trước khi dịch bùng phát vào tháng 4 năm 2009? Các nhà nghiên cứu vắc-xin đã tìm ra những sự thật sau:
Baxter đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế vắc-xin Hoa Kỳ 2009/0060950 A1 vào đầu tháng 8 năm 2008 và đã xuất bản bài viết này vào tháng 3 năm 2009. Sau đó, Novartis đã nộp bằng sáng chế riêng của mình, US 20090047353 A1, vào ngày 4 tháng 11, 2005. Bằng sáng chế được Văn phòng Sáng chế Hoa Kỳ cấp vào ngày 19 tháng 2 năm 2009.
Điều thú vị là bốn năm trước 'đại dịch' năm 2009, Novartis đã phát minh ra 'Vắc-xin cúm phân tách', có tác dụng kết hợp hiệu quả nhiều chủng vi-rút. (Vi-rút cúm lợn năm 2009 được cho là chứa bốn chủng vi-rút, một loại vắc-xin cúm phân tách!)
Theo một số chuyên gia, sau khi các hướng dẫn của WHO được công bố, các công ty dược phẩm đã thu về hơn 7 tỷ đô la khi các chính phủ tích trữ vắc-xin. Ví dụ, Vương quốc Anh, nơi ghi nhận 65.000 ca tử vong do đại dịch cúm (cuối cùng có 400 ca tử vong), đã đặt hàng ban đầu 14,6 triệu liều Tamiflu vào năm 2005. Kể từ đó, chính phủ đã ra lệnh điều tra khoản chi 232 triệu đô la của cơ quan y tế công cộng, Dịch vụ Y tế Quốc gia, để xác định xem việc mua sắm hoảng loạn này đã gây thiệt hại cho người nộp thuế đến mức nào.
Về vấn đề minh bạch, BMJ đã chỉ ra một nhóm "bí mật" khác mà họ cho là đã chỉ đạo "đại dịch" cúm lợn năm 2009. Đây là một nhóm gồm 16 thành viên do WHO thành lập để hướng dẫn WHO về mọi khía cạnh của cái gọi là đại dịch, bao gồm cả việc ban bố mức độ khẩn cấp nào và khi nào thì tuyên bố "đại dịch" đã kết thúc.
Cơ quan quốc tế này không tiết lộ danh tính của 16 thành viên này, bề ngoài là để bảo vệ họ khỏi sự tiếp cận của ngành công nghiệp. Sự thật là các thành viên này có mặt trong hội đồng này vì mối liên hệ của họ với ngành công nghiệp, và sẽ không có gì ngạc nhiên nếu trong nhóm này cũng có đại diện của các nhà sản xuất vắc-xin lớn liên quan đến "đại dịch" cúm lợn.
>>Tiếp: 9.5 Họ đã có một linh cảm
9.3 Hàng tỷ đô la trôi xuống cống
>>Trước: 9.2 Ai phải chịu trách nhiệm?
Sau nỗi sợ hãi và hàng triệu người đã tự tiêm vắc-xin hoặc bị chính phủ ép buộc, đây là một số con số đáng chú ý.
Dữ liệu có sẵn tính đến tháng 4 năm 2010 cho thấy chỉ sáu tháng sau cuộc chạy đua điên cuồng để có được dược phẩm cứu hàng triệu người khỏi bệnh cúm lợn, hơn một nửa số vắc-xin 'cứu sống' này thực sự đã được sử dụng và một lượng lớn trong số chúng có nguy cơ hết hạn sử dụng, tức là trong số 229 triệu liều vắc-xin H1N1 do chính phủ Hoa Kỳ mua, chỉ có 91 triệu liều được sử dụng cho một nhóm dân số không hề hay biết vào tháng 2 năm 2010. Có tới 71 triệu liều vắc-xin được lên kế hoạch tiêu hủy vì hết hạn sử dụng; và hàng triệu liều chưa sử dụng đã được chuyển đến các nước đang phát triển.
Không cần phải nói, để tận dụng tốt hầu hết các loại vắc-xin chưa sử dụng, các cơ quan y tế Hoa Kỳ đã quyết định kết hợp chúng với các loại vắc-xin cúm thông thường mới và cung cấp cho người Mỹ khả năng bảo vệ "kép" trong mùa cúm hoặc cúm năm 2010, đề phòng trường hợp cúm lợn quay trở lại.
Tất nhiên, toàn bộ sự thất bại này đã gây ra tổn thất rất lớn cho người nộp thuế vì chính phủ Hoa Kỳ đã trả cho bốn nhà sản xuất vắc-xin 1,6 tỷ đô la để sản xuất vắc-xin H1N1 vào năm 2009. Chỉ riêng tại Pháp, chính phủ đã mua 94 triệu liều vắc-xin với chi phí 734 triệu đô la nhưng chưa đến 10 phần trăm dân số chọn tiêm vắc-xin.
Tất nhiên, các chính phủ và cơ quan như WHO không mắc phải những "sai lầm" toán học to lớn. Khi những con số như thế này không khớp nhau, thường sẽ có một lời giải thích hoàn toàn hợp lý, và đôi khi, ai đó đã thành công trong việc "đổ chuông" cho con mèo.
Vào tháng 1 năm 2010, chính trị gia người Đức kiêm chủ tịch Ủy ban Y tế của Hội đồng Châu Âu, Wolfgang Wodarg, đã thẳng thừng cáo buộc các cơ quan y tế toàn cầu cố tình gây ra nỗi lo sợ về một đại dịch toàn cầu theo lệnh của các nhà sản xuất vắc-xin, với động cơ duy nhất là lợi ích kinh tế. Hội đồng Châu Âu, một tổ chức phi lợi nhuận và cơ quan giám sát nhân quyền, sau đó đã lên tiếng chỉ trích WHO trong một báo cáo được công bố vào tháng 6 năm 2010.
Bản thân Wodarg cũng là một bác sĩ, cáo buộc Big Pharma đã dụ dỗ các cơ quan y tế công cộng nhấn nút báo động để tuyên bố đại dịch giả. Truy ngược âm mưu này về Mexico, tâm chấn của dịch cúm lợn năm 2009, ông cáo buộc rằng hơn một trăm ca cúm đã được tuyên bố là "đại dịch mới" mặc dù không có bằng chứng khoa học nào chứng minh điều đó.
Trước những lời chỉ trích gay gắt như vậy, WHO đã chuyển sang chế độ kiểm soát thiệt hại và tuyên bố vào tháng 4 năm 2010 rằng họ sẽ tiến hành một cuộc điều tra về vấn đề này. Cuộc điều tra này bề ngoài sẽ xem xét liệu đại dịch có bị xử lý sai lầm hay không khi cơ quan này không thông báo cho công chúng về những bất ổn của đại dịch.
Chuyên gia cúm hàng đầu của WHO, Keiji Fukuda, buộc phải thừa nhận rằng virus H1N1 không gây tử vong như nhận định ban đầu. Tuy nhiên, ông đổ lỗi cho hai yếu tố gây nhầm lẫn: Thứ nhất, những thông số gây nhầm lẫn được sử dụng để tuyên bố đại dịch, và thứ hai, virus cúm gia cầm H5N1! Dù tin hay không, trong một tuyên bố công khai, Fukuda cho biết virus cúm gia cầm H5N1 đã giết chết hơn một nửa số người bị nhiễm kể từ năm 2003 và điều này đã "gây ra nỗi sợ hãi cao độ về đại dịch tiếp theo".
Ông cũng cho biết, trước tính chất đột ngột của đợt bùng phát năm 2009 và sự mới mẻ của chủng H1N1 đã gây ra "đại dịch", các cơ quan y tế công cộng và chuyên gia ban đầu không chắc liệu một liều vắc-xin có hiệu quả hay không. Chương trình tiêm chủng đã được thiết kế với hai liều cho mỗi người, chiếm phần lớn số liều đã được đặt hàng (điều này khiến các nhà sản xuất vắc-xin rất vui mừng).
Ngay cả khi WHO tuyên bố hùng hồn rằng họ sẽ điều tra mức độ nghiêm trọng của dịch bệnh (chúng ta đều biết những cuộc điều tra này được dàn dựng để che đậy danh tiếng như thế nào), hàng triệu liều vắc-xin cúm lợn chưa sử dụng vẫn được hào phóng gửi đến các nước đang phát triển. Có 95 quốc gia được liệt kê là quốc gia thụ hưởng. Nhưng chúng ta đều biết rằng lòng hào phóng không nằm trong số những đức tính của chính phủ Hoa Kỳ. (Xem Chương 3: Có Âm mưu nào không?)
Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi các con số không khớp nhau? Dường như một khi thiệt hại đã được gây ra bởi sự cường điệu do WHO, các chính phủ, các cơ quan y tế công cộng và giới truyền thông tạo ra, những kẻ thủ ác này cần phải che giấu dấu vết. Và điều đó đồng nghĩa với việc ngừng tạo ra dữ liệu gây hại.
Đó là lý do tại sao CDC đã có một sự thay đổi khó hiểu vào tháng 7 năm 2009, chỉ bốn tháng sau khi "đại dịch chết người" bùng phát và chỉ một tháng sau khi nó được nâng lên "đại dịch cấp độ 6".
Trong thông báo gửi từng tiểu bang ngày 24 tháng 7 năm 2009, CDC đã chỉ thị cho từng tiểu bang và tất cả các cơ quan y tế công cộng ngừng thống kê các ca nhiễm H1N1 và ngừng nộp dữ liệu về cúm lợn! Lưu ý, đây là thời điểm đỉnh điểm của cơn hoảng loạn đại dịch.
Sau đây là nội dung thông báo: "Đính kèm là phần Hỏi & Đáp sẽ được đăng trên trang web của CDC vào ngày mai, giải thích lý do tại sao CDC không còn báo cáo số ca nhiễm H1N1 mới nữa. CDC rất muốn gửi những câu hỏi này cho bạn để lấy ý kiến đóng góp nhưng tiếc là không có đủ thời gian trước khi chúng cần được đăng tải."
CDC đã khiến các tiểu bang tin rằng việc đếm số ca cúm lợn là vô nghĩa khi đã có bằng chứng cho thấy một đại dịch đang hoành hành khắp thế giới. Nhưng sự thật là hầu hết các ca cúm đều không có kết quả xét nghiệm dương tính với cúm lợn, thậm chí là cúm! Sao lại thế? Thực ra, hầu hết những người nghĩ mình bị cúm đều biểu hiện các triệu chứng giống cúm, nhưng, trong trường hợp tốt nhất, những triệu chứng giống cúm này có thể chỉ là do bệnh đường hô hấp trên hoặc các bệnh nhiễm trùng tương tự khác. Do đó, thủ phạm không phải là virus H1N1 vốn bị chỉ trích rất nhiều, mà là một tác nhân gây bệnh khác!
Thực tế là nhiều tác nhân gây bệnh chuyển sang độc lực theo chu kỳ liên quan đến mùa và nhiều trong số chúng gây ra các triệu chứng giống cúm. Theo các chuyên gia, có tới 150 đến 200 tác nhân gây bệnh truyền nhiễm như parainfluenza, adenovirus và rhinovirus, coronavirus và viêm phổi gây ra các triệu chứng giống cúm. Những tác nhân khác bao gồm các vi khuẩn ít phổ biến hơn như bocavirus gây viêm phế quản và viêm phổi ở trẻ em, và metapneumovirus, nguyên nhân gây ra khoảng 5% tổng số các bệnh liên quan đến cúm.
Vậy làm sao chúng ta biết được rằng hầu hết các ca cúm lợn đáng sợ đó hoàn toàn không phải là cúm lợn? Vụ che đậy quy mô lớn của CDC đã bị Sharyl Attkisson, phóng viên điều tra của kênh truyền hình CBS Hoa Kỳ, vạch trần. Những dữ kiện mà bà sử dụng để đi đến kết luận của mình đến từ các số liệu thống kê thu thập được theo Đạo luật Tự do Thông tin, và các số liệu thống kê này đến từ từng tiểu bang đã xét nghiệm mẫu bệnh phẩm do các bác sĩ nộp, và các bác sĩ này sau đó đã nộp lại mẫu bệnh phẩm từ các ca nghi nhiễm cúm lợn đến phòng khám của họ. Dưới đây là những phát hiện gây sốc của At-tkisson:
Ở Florida, 83 phần trăm mẫu xét nghiệm nghi ngờ là cúm lợn đều cho kết quả âm tính với tất cả các loại cúm khi xét nghiệm.
Tại California, 86% mẫu bệnh phẩm nghi ngờ nhiễm H1N1 không phải là cúm lợn hay bất kỳ loại cúm nào. Chỉ có 2% được xác nhận là cúm lợn.
Tại Alaska, 93% mẫu xét nghiệm nghi ngờ cúm lợn đều âm tính với tất cả các loại cúm. Chỉ có 1% là cúm H1N1.
Đây là những kết luận tai hại cho CDC, FDA và chính phủ Hoa Kỳ, những cơ quan đã dốc toàn lực để bịa đặt và tiếp thị "đại dịch" cúm lợn. Đây chỉ là một ví dụ cho thấy dịch bệnh đã bị thổi phồng quá mức như thế nào.
Sau tất cả những lời đồn thổi và ồn ào, hóa ra số ca nhiễm cúm lợn mà truyền thông đưa tin thường dựa trên những sự cố như thế này tại Đại học Georgetown ở Washington D.C. Vào tháng 9 năm 2009, các phương tiện truyền thông đưa tin rằng virus cúm lợn đã lây nhiễm cho 250 sinh viên tại trường đại học này. Nếu điều này thực sự đúng, nó sẽ cực kỳ nghiêm trọng. Hóa ra con số này dựa trên số lượng sinh viên hoảng loạn đã đến trung tâm y tế của trường và/hoặc gọi bác sĩ trực để báo cáo các triệu chứng giống cúm!
>>Tiếp: 9.4 Tiền làm cho virus lây lan!
9.2 Ai phải chịu trách nhiệm?
>>Trước: 9.1 Vắc-xin như phương tiện
Dịch cúm gia cầm chưa từng xảy ra không phải là kế hoạch tiêm chủng được dàn dựng công phu và cẩn thận duy nhất đã thất bại thảm hại. "Đại dịch" cúm lợn năm 2009 là một ví dụ khác.
Trong số hàng triệu ca tử vong được dự đoán, chỉ có khoảng 14.000 ca tử vong trên toàn thế giới sau đợt bùng phát cúm lợn năm 2009. Trong số này, ban đầu người ta ước tính có 12.000 ca tử vong ở Hoa Kỳ, nhưng thực tế chỉ là một phần nhỏ.
Vậy thì virus này sai lệch đến mức nào?
Trang web của WHO cho biết cúm mùa gây ra 250.000 đến 500.000 ca tử vong mỗi năm trên toàn thế giới (36.000 ca ở Mỹ). Với việc virus H1N1 đã cướp đi sinh mạng của khoảng 14.000 người trên toàn cầu, số người chết vì cúm lợn trên toàn thế giới chỉ bằng chưa đến một nửa số người tử vong vì cúm mùa ở Mỹ mỗi năm. Thật đáng xấu hổ cho các nhà sản xuất vắc-xin và những người bảo trợ chính trị của họ!
Vậy nên, khi WHO và các cơ quan y tế công cộng Hoa Kỳ (luôn phối hợp chặt chẽ) nhận ra rằng "đại dịch" hóa ra chỉ là một quả pháo nổ, họ phải hành động, và phải hành động thật nhanh! Giải pháp dễ nhất để giữ thể diện và gây hoang mang cho công chúng là dùng đến những chiêu trò ngữ nghĩa. Vậy là WHO, vị thầy tế lễ tối cao của mọi khía cạnh sức khỏe/bệnh tật toàn cầu, đã đơn giản thay đổi định nghĩa về "đại dịch"!
Đây là cách WHO trước đây định nghĩa "đại dịch cúm" trên trang web chính thức của mình. "Đại dịch cúm xảy ra khi một loại virus cúm mới xuất hiện mà con người chưa có miễn dịch, gây ra nhiều đợt dịch bệnh đồng thời trên toàn thế giới với số lượng ca tử vong và bệnh tật khổng lồ. Với sự gia tăng giao thông và truyền thông toàn cầu, cũng như đô thị hóa và điều kiện sống quá tải, các dịch bệnh do virus cúm mới này có khả năng nhanh chóng lan rộng trên toàn thế giới."
Đây là định nghĩa được diễn đạt lại của "đại dịch cúm". "Một dịch bệnh xảy ra khi số ca mắc bệnh cao hơn bình thường. Đại dịch là tình trạng dịch bệnh lan rộng trên toàn thế giới. Đại dịch cúm có thể xảy ra khi một loại virus cúm mới xuất hiện mà con người chưa có miễn dịch. Với sự gia tăng giao thông toàn cầu, cũng như đô thị hóa và tình trạng quá tải dân số ở một số khu vực, các dịch bệnh do virus cúm mới có khả năng lan rộng trên toàn thế giới và trở thành đại dịch nhanh hơn trước. WHO đã định nghĩa các giai đoạn của một đại dịch để cung cấp một khuôn khổ toàn cầu hỗ trợ các quốc gia trong việc chuẩn bị và lập kế hoạch ứng phó với đại dịch. Đại dịch có thể nhẹ hoặc nặng về mức độ bệnh tật và tử vong mà chúng gây ra, và mức độ nghiêm trọng của đại dịch có thể thay đổi trong suốt quá trình diễn ra đại dịch."
Lưu ý hai thay đổi quan trọng. Thứ nhất, định nghĩa thứ hai không đề cập đến "số lượng tử vong khổng lồ" và thứ hai, nó đã bỏ qua cụm từ "đại dịch có thể nhẹ hoặc nghiêm trọng".
Không phải ngẫu nhiên mà định nghĩa này đã thay đổi sau khi WHO ghi nhận mô hình bùng phát dịch bệnh. Và, để giải thích tại sao cái gọi là đại dịch (may mắn thay) lại không thảm khốc như WHO mong đợi, WHO đã khéo léo thêm vào định nghĩa mới rằng "mức độ nghiêm trọng có thể thay đổi trong suốt quá trình diễn ra đại dịch"!
Yếu tố duy nhất mà WHO dựa vào để đưa ra định nghĩa về đại dịch là khả năng lây truyền của vi-rút (không hơn không kém vi-rút cúm theo mùa), chứ không phải mức độ nghiêm trọng hoặc khả năng gây tử vong của vi-rút.
>>Tiếp: 9.3 Hàng tỷ đô la trôi xuống cống
9. Chương 7 - Cúm lợn: Đại dịch không hề có kết quả!
>>Trước: 8.9 Có nên tiêm vắc-xin hay không?
Ngày 22 tháng 12 năm 2009 là một ngày trọng đại đối với các nhà sản xuất vắc-xin. Họ không thể mong đợi gì hơn. Khắp các trang báo, trang web và kênh truyền hình là hình ảnh Tổng thống Hoa Kỳ Barrack Obama xắn tay áo lên tiêm vắc-xin cúm lợn. Chỉ mất vài giây để tiêm mũi vắc-xin, nhưng ngay khoảnh khắc đó, vị Tổng thống Hoa Kỳ đã trở thành hình mẫu cho các nhà sản xuất vắc-xin. Với sự ủng hộ như vậy, liệu các công ty vắc-xin lớn như GlaxoSmithKline, Novartis, Sanofi Pas-teur, Baxter, CSL và Medimmune có thể mong đợi gì hơn nữa?
Kể từ khi cúm lợn xuất hiện ở Mexico và ngay sau đó là ở Mỹ, đã có những nghi ngờ tiềm ẩn rằng virus được tạo ra trong phòng thí nghiệm. Các thuyết âm mưu đã nở rộ từ giữa năm 2009, nhưng có một khía cạnh trong cốt truyện ly kỳ này mà không ai có thể phủ nhận - "sự nhầm lẫn" gây sốc về Baxter.
"Sai lầm" nghiêm trọng này bị phát hiện khi những con chồn sương thí nghiệm nhiễm phải một loại cúm gia cầm chết người trong các phòng thí nghiệm ở Cộng hòa Séc vào đầu năm 2009. Việc điều tra sâu hơn cho thấy vắc-xin được tiêm cho những con chồn sương này chính là vắc-xin cúm mùa H3N2 dự kiến sẽ được bán ra thị trường vào mùa đông năm 2009. Vắc-xin này đã được chi nhánh Áo của Baxter International tại Mỹ chuyển đến phòng thí nghiệm ở Séc. Hóa ra, những lô hàng tương tự cũng đã được gửi đến các phòng thí nghiệm ở Đức, Slovenia và 16 quốc gia khác.
Nếu điều đó chưa đủ đáng sợ, thì điểm mấu chốt của âm mưu này là vắc-xin cúm của Baxter đã bị nhiễm bẩn hoặc trộn lẫn với các chủng virus cúm gia cầm H5N1 chết người, với tỷ lệ tử vong lên tới 60%. Liệu việc "nhiễm bẩn" này có phải là vô tình? Nếu không, liệu có phải các lô hàng sai đã vô tình được gửi đến các phòng thí nghiệm này không?
Baxter không thể thoát khỏi vụ này. Nếu sự nhiễm bẩn không phải là ngẫu nhiên, câu hỏi đặt ra là: liệu nhà sản xuất vắc-xin có đang chuẩn bị một vũ khí sinh học hủy diệt hàng loạt hay không? Nếu các lô hàng được gửi đến đúng đích đến, thì người nhận định làm gì với số vật liệu sinh học gây chết người này? Nếu quả thực đó là một sai lầm, tại sao Baxter lại thoát tội? Và làm thế nào mà những vật liệu di truyền chết người như vậy lại lọt qua được hàng loạt cuộc kiểm tra tại các điểm trung chuyển sau sự kiện 11/9?
Một số nhà phê bình đã đặt câu hỏi liệu Baxter có phải là một phần của một âm mưu toàn cầu nhằm cố tình gây ra đại dịch cúm gia cầm trên toàn thế giới hay không. Bạn còn nhớ dịch cúm gia cầm hay cúm chim đã trở thành một quả pháo nổ vào năm 2003 chứ?
Liệu có âm mưu nào đang được thực hiện để đảm bảo một đại dịch sẽ xảy ra (gây ra hàng triệu ca tử vong) lần này không? Liệu Baxter có phải là một phần của âm mưu giảm dân số toàn cầu, một điều đã là trọng tâm trong "công tác nhân đạo" của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) trong nhiều thập kỷ?
Một trong những nghi ngờ là Baxter, công ty đã sản xuất vắc-xin phòng H5N1, đang cố tình gây ra đại dịch để tăng doanh số vắc-xin phòng cúm gia cầm chết người. Nếu điều này nghe có vẻ đơn giản, hãy nhớ rằng không có nhà sản xuất thuốc nào hành động một mình. Họ luôn là một phần của một kế hoạch lớn hơn nhiều, trong đó lợi nhuận được chia cho nhiều nhóm khác nhau, bao gồm các chính trị gia, các quan chức chủ chốt của các cơ quan y tế công cộng và các tổ chức y tế toàn cầu.
9.1 Vắc-xin như phương tiện
Còn cách nào tốt hơn để lan truyền một đại dịch hơn là lợi dụng nó trên một loại virus gây ra một trong những căn bệnh truyền nhiễm nhất thế giới - cúm? Nếu Baxter thành công trong việc giải phóng virus H5N1 gây chết người cùng với virus cúm mùa, thế giới sẽ trở thành một phòng thí nghiệm thực sự.
Hàng triệu người sẽ trở thành lò ấp cho một quá trình gọi là "tái phân loại", một quá trình mà vật liệu di truyền của hai (hoặc nhiều hơn) chủng virus kết hợp với nhau để cuối cùng tạo ra một chủng mới. Giữa hàng tỷ người và đang lây lan nhanh chóng, quá trình tái phân loại gần như chắc chắn sẽ dẫn đến một chủng virus cúm đột biến chứa các yếu tố của virus cúm gia cầm chết người.
Nhưng điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Vắc-xin đã được sử dụng như một phương tiện lây lan các bệnh chết người kể từ khi chúng được phát minh. Vụ bê bối lớn đầu tiên nổ ra khi người ta phát hiện ra rằng Vắc-xin bại liệt bất hoạt đã bị nhiễm vi-rút SV40 (Xem Chương 2: Những sai lầm trong lịch sử) và đã được sử dụng trong các chương trình tiêm chủng hàng loạt từ năm 1955 đến năm 1963. Vắc-xin này bị nghi ngờ là nguyên nhân gây ung thư xương, não và các cơ quan khác ở người và tác động của nó vẫn còn ảnh hưởng đến những người đã được tiêm chủng trong thời gian đó.
Tiếp theo, vắc-xin viêm gan B được sử dụng như một phương tiện để đưa vi-rút HIV vào những người đàn ông đồng tính không hề hay biết ở Manhattan vào những năm 1980. (Xem Chương 3: Có phải có âm mưu không?) Khi phát hiện ra điều này thì đã quá muộn.
Cùng lúc virus HIV lây nhiễm cho hàng triệu người thông qua vắc-xin viêm gan B, một công ty khác cũng đang ấp ủ một quả bom hẹn giờ di truyền mà hoàn toàn hiểu rõ hậu quả của nó. Công ty đó là Bayer, cùng với hai công ty khác, bao gồm Baxter (tại sao chúng ta lại không ngạc nhiên chứ?), đã sử dụng huyết tương từ những người hiến tặng có nguy cơ cao, bao gồm cả nam giới đồng tính và tù nhân, để tạo ra một loại thuốc cô đặc dùng để điều trị bệnh máu khó đông.
Yếu tố VIII của Bayer là một loại thuốc tiêm được dùng cho người mắc bệnh ưa chảy máu để hỗ trợ đông máu. Trong quá trình vội vã lấy huyết tương cần thiết để điều chế công thức, Bayer đã vi phạm luật liên bang, yêu cầu công ty phải sàng lọc những người hiến tặng bị viêm gan siêu vi. Do đó, huyết tương đã được lấy từ khoảng 10.000 người hiến tặng có nguy cơ cao, những người được trả tiền cho dịch vụ của họ vào cuối những năm 1980.
Vì virus HIV đã lưu hành trong các nhóm nguy cơ cao, những người đã được nhắm mục tiêu một cách có chủ đích, nên huyết tương của Bayer cũng chứa virus HIV chết người. Kết quả là, virus đã lây truyền cho khoảng 10.000 người mắc bệnh máu khó đông ở Hoa Kỳ thông qua yếu tố VIII của Bayer, vốn đã bị nhiễm bẩn.
Mặc dù vụ bê bối đã đủ rùng rợn, nhưng các cuộc điều tra sâu hơn cho thấy Bayer đã biết về sản phẩm bị nhiễm độc của mình nhưng lại chọn cách im lặng. Khi Factor VIII bị rút khỏi thị trường và công ty phát triển một phiên bản mới hơn của loại thuốc này (đã được xử lý nhiệt để tiêu diệt virus HIV trong đó), Bayer đã bán phiên bản cũ của sản phẩm cho các quốc gia ở Châu Âu, Châu Á và Châu Mỹ Latinh, nơi hàng ngàn trẻ em mắc bệnh máu khó đông đã nhiễm virus HIV thông qua loại thuốc "cứu sống" này.
Bayer đã táo bạo viết thư cho các nhà phân phối ở những quốc gia này, nói rằng AIDS là "trung tâm của phản ứng phi lý ở nhiều quốc gia" và họ không cần phải cảnh giác với loại thuốc của mình!
Ngoài ra, các tài liệu nội bộ được phân loại có nguồn gốc từ công ty tiết lộ rằng Bayer đã thông đồng với FDA để che đậy vụ bê bối. Mặc dù không một giám đốc điều hành nào của Bayer phải đối mặt với cáo buộc, một quan chức y tế Pháp đã phải vào tù vì cho phép bán và phân phối thuốc nhiễm độc của Bayer.
Nhưng các công ty dược phẩm và cơ quan y tế công cộng vốn nổi tiếng là không có lương tâm. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi vào tháng 4 năm 2009, Baxter nằm trong nhóm ưu tú các nhà sản xuất vắc-xin được ký hợp đồng sản xuất loại vắc-xin cúm lợn rất được săn đón này. Và nếu trí nhớ của công chúng có hạn, thì có vẻ như chính quyền liên bang Hoa Kỳ đang mắc phải chứng mất trí nhớ cấp tính - thông báo được đưa ra chưa đầy hai tháng sau âm mưu cúm gia cầm Baxter.
Và đây không phải là lần đầu tiên công ty vắc-xin của Mỹ tham gia vào các nỗ lực giúp ngăn ngừa (hoặc tạo ra?) dịch bệnh, đại dịch và ngăn chặn các mối đe dọa khủng bố sinh học.
Sau đây là thành tích lừng lẫy của Baxter trong lĩnh vực này:
Bệnh đậu mùa: Sau thảm kịch ngày 11 tháng 9 năm 2001, công ty đã cung cấp một lượng lớn vắc-xin đậu mùa. Việc này được thực hiện với sự hợp tác của công ty công nghệ sinh học Acambis có trụ sở tại Anh.
SARS: Sau khi Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) bùng phát vào năm 2003, chính phủ Hoa Kỳ đã ký hợp đồng với Baxter để sản xuất vắc-xin phòng ngừa căn bệnh này.
Thuốc độc thần kinh: Năm 2005, Baxter là một trong hai công ty nghiên cứu "thuốc điều trị dựa trên huyết tương dùng cho những cá nhân có thể tiếp xúc với chất độc khí độc thần kinh".
Vắc-xin cúm: Vào năm 2006 (ba năm trước khi dịch cúm lợn bùng phát), chính phủ Anh cho biết họ đã có kế hoạch tiêm vắc-xin do Baxter sản xuất cho mọi người dân trong nước để phòng trường hợp xảy ra đại dịch cúm.
Khoản lợi nhuận kế tiếp của nhà sản xuất vắc-xin này đến từ "đại dịch" cúm lợn. Baxter chắc chắn có bạn bè trong các cơ quan chính phủ cấp cao ở các nước phát triển lớn. Vậy thì bằng cách nào mà ông ấy có được những dự án nghiên cứu và thương mại uy tín này?
Và đây chỉ là những nhiệm vụ nổi bật được công bố. Baxter cũng được hưởng lợi từ nguồn tài trợ khổng lồ của chính phủ. Ví dụ, vào năm 2006, chính quyền Bush đã tài trợ 1 tỷ đô la cho các nhà sản xuất vắc-xin, bao gồm cả Baxter, để đẩy nhanh quá trình sản xuất vắc-xin của họ. Baxter đặc biệt được trao một hợp đồng 5 năm để phát triển cả vắc-xin theo mùa và vắc-xin đại dịch.
>>Tiếp: 9.2 Ai phải chịu trách nhiệm?
8.9 Có nên tiêm vắc-xin hay không?
>>Trước: 8.8 Vụ kiện mang tính bước ngoặt
Không có cuộc thảo luận nào về chứng tự kỷ và vắc-xin có thể trọn vẹn nếu không nhắc đến Tiến sĩ Andrew Wakefield, người có nghiên cứu về mối liên hệ giữa vắc-xin MMR và chứng rối loạn này, người đầu tiên làm dấy lên lo ngại về mối liên hệ có thể có giữa hai căn bệnh này.
Tiến sĩ Wakefield khi đó làm việc tại Bệnh viện Royal Free ở London và năm 1998, ông đã xuất bản một bài báo trên tạp chí Lancet nêu rằng vắc-xin MMR gây ra chứng tự kỷ. Tiến sĩ Wakefield, một bác sĩ người Anh hiện đang sống tại Hoa Kỳ, đã bị giới y khoa Anh điều tra trong suốt 12 năm.
Từ đó, công trình của ông đã bị chỉ trích là thiếu đạo đức, phương pháp của ông bị chỉ trích thậm tệ và giấy phép hành nghề y của ông bị thu hồi. Nhưng nếu ông không nêu nghi ngờ lúc đó, khả năng vắc-xin MMR gây ra các rối loạn liên quan đến tự kỷ có lẽ đã không nhận được sự quan tâm xứng đáng.
Tiến sĩ Wakefield cũng cáo buộc rằng vắc-xin MMR chưa bao giờ trải qua các cuộc thử nghiệm an toàn thích hợp và các cuộc kiểm tra an toàn ban đầu chỉ kéo dài bốn tuần. Sau khi bài báo của Tiến sĩ Wakefield được công bố năm 1998, tỷ lệ tiêm chủng MMR ở Anh đã giảm mạnh và tỷ lệ mắc sởi tăng vọt. Bài báo của bác sĩ cũng đã thúc đẩy một loạt các nghiên cứu y khoa, với những phát hiện đã được công bố trên nhiều tạp chí y khoa khác nhau, bác bỏ, phủ nhận và ủng hộ mối liên hệ giữa tự kỷ và MMR, trong thập kỷ tiếp theo. Tuy nhiên, cộng đồng y khoa vẫn là nơi tất cả bắt đầu – không 'liên kết nhân quả' nhưng bằng chứng áp đảo về mối tương quan giữa các các rối loạn liên quan đến vắc-xin chứa thủy ngân.
Trong khi cuộc tranh luận về vắc-xin và tác hại của chúng vẫn tiếp diễn, thực tế là các bậc cha mẹ ở Hoa Kỳ ngày càng đặt câu hỏi liệu vắc-xin - ít nhất là đối với rất nhiều người - có thực sự cần thiết hay không.
Theo nghiên cứu, dựa trên hồ sơ và phỏng vấn phụ huynh của gần 9.000 trẻ em dưới 3 tuổi, được thực hiện thông qua Khảo sát Tiêm chủng Quốc gia của CDC, 39% phụ huynh đã trì hoãn hoặc từ chối tiêm chủng cho con em mình. Con số này so với 22% vào năm 2003.
Các bậc phụ huynh được khảo sát cho rằng lịch trình của chính phủ yêu cầu tiêm quá nhiều liều vắc-xin. Các tác dụng phụ của vắc-xin, bao gồm cả chứng tự kỷ, được coi là một lý do khác khiến họ hoài nghi. Một số thậm chí còn tự hỏi liệu vắc-xin có thực sự hiệu quả hay không.
Ở một khía cạnh khác, Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia Hoa Kỳ đã kết luận rằng việc phụ nữ mang thai bổ sung đủ vitamin D là rất cần thiết để đảm bảo sự phát triển não bộ của thai nhi. Việc bổ sung đủ vitamin D sau khi sinh cũng quan trọng không kém đối với sự phát triển não bộ của trẻ. Vì trẻ không nhận được vitamin D từ sữa mẹ, nên cách tự nhiên duy nhất để hấp thụ vitamin D là thông qua ánh sáng mặt trời, đúng như bản chất của tạo hóa.
Ngay cả việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời vừa phải cũng giúp đảm bảo sự phát triển não bộ bình thường. Đáng tiếc là, tình trạng tránh nắng đã gia tăng đáng kể trong 20 năm qua, kể từ khi cộng đồng y tế bắt đầu cảnh báo về những nguy hiểm của việc tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Ngày nay, ít cha mẹ cho con mình tiếp xúc với ánh nắng mặt trời hơn, và nếu có, trẻ sơ sinh thường được cho dùng kem chống nắng và thậm chí cả kính râm! Các bác sĩ nhi khoa thậm chí còn cảnh báo các bậc cha mẹ không nên cho trẻ sơ sinh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời ít nhất trong sáu tháng đầu đời.
Các thụ thể vitamin D xuất hiện trong nhiều loại mô não khác nhau ngay từ giai đoạn đầu phát triển của trẻ, và khi các thụ thể vitamin D được kích hoạt, chúng sẽ thúc đẩy sự phát triển thần kinh trong não. Nếu bạn có con tự kỷ, hãy đảm bảo con dành nhiều giờ mỗi ngày ở ngoài trời, và nếu trời ấm, hãy cởi bỏ quần áo, để toàn bộ làn da có thể được tiếp nhận liệu pháp quý giá này.
Vitamin D giúp cân bằng phản ứng miễn dịch và đảm bảo hệ miễn dịch không phản ứng thái quá, dẫn đến vòng viêm không thể ngăn chặn. Nó cũng ngăn ngừa nhiễm trùng và khiến việc tiêm chủng trở nên không cần thiết. Vitamin D đóng vai trò là vắc-xin tự nhiên tối ưu chống lại mọi bệnh truyền nhiễm, và không một đột biến gen nào của vi khuẩn có thể qua mặt được cơ chế bảo vệ được thiết lập bởi hormone steroid mạnh mẽ này.
Bạn sẽ không bao giờ biết được sự thật về những lợi ích đáng kinh ngạc của vitamin D từ các công ty dược phẩm, FDA, CDC và những bên khác có lợi ích trong việc duy trì ngành công nghiệp thuốc men. Những cảnh báo đáng sợ về tác động có thể gây tử vong do ánh nắng mặt trời đã được các lãnh đạo ngành y tế đưa ra vào khoảng thời gian mà ngành công nghiệp vắc-xin đang trên đà suy tàn cần một "vắc-xin tăng cường". Bằng cách nói với công chúng rằng ánh nắng mặt trời nguy hiểm, ngày càng nhiều người bị thiếu hụt vitamin D và thấy mình cần điều trị y tế (tốn kém) cho hàng chục căn bệnh phổ biến.
Giờ đây, khi gần như toàn bộ dân số, bao gồm cả trẻ sơ sinh, đều thiếu vitamin D, ngành công nghiệp thuốc men và các nhà sản xuất vắc-xin đang phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tự kỷ, Alzheimer và ung thư là một trong những căn bệnh mang lại doanh thu cao nhất. Sẽ thật ngây thơ nếu tin rằng ngành y tế và những người bảo trợ của nó, FDA, CDC và WHO, sẽ khuyến khích hoặc cho phép khoa học y tế tìm ra phương pháp chữa trị những căn bệnh này.
Các nghiên cứu khoa học cho thấy vitamin D có thể ngăn ngừa 70% tất cả các loại ung thư, nhưng bạn sẽ không nghe thấy các cơ quan bảo vệ sức khỏe này khuyến nghị bạn nên dành nhiều thời gian dưới ánh nắng mặt trời mà không dùng kem chống nắng để bổ sung lượng vitamin D dự trữ trong cơ thể. Theo FDA, trái ngược với hàng trăm nghiên cứu khoa học được bình duyệt về vitamin D, loại hormone được biết là điều chỉnh hơn 2.000 gen này "không có tác dụng sinh học có lợi nào đối với cơ thể con người". (Hãy đọc cuốn sách của tôi, "Heal Yourself with Sunlight", để tìm hiểu cách yếu tố thiết yếu của thiên nhiên này ảnh hưởng tích cực đến sức khỏe và hạnh phúc của chúng ta, có lẽ còn hơn bất kỳ yếu tố nào khác).
>>Tiếp: 9. Chương 7 - Cúm lợn: Đại dịch không hề có kết quả!
8.8 Vụ kiện mang tính bước ngoặt
>>Trước: 8.7 Bí mật bẩn thỉu của Merck
Sau làn sóng phẫn nộ của công chúng do nghi ngờ vắc-xin DTaP gây ra Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh và các tác dụng phụ khác, Bộ Y tế Hoa Kỳ đã thành lập Tòa án Vắc-xin vào năm 1988. Tòa án này có nhiệm vụ xét xử các vụ án mà gia đình cá nhân cáo buộc rằng vắc-xin đã gây ra thương tích, bệnh tật hoặc tử vong cho con cái họ.
Mặc dù gánh nặng chứng minh mối liên hệ nhân quả giữa vắc-xin và các triệu chứng của nguyên đơn hoàn toàn thuộc về nguyên đơn, hàng trăm vụ kiện đã được phán quyết có lợi cho họ.
Nhưng có lẽ không có loại vắc-xin nào thu hút sự chú ý pháp lý nhiều như vắc-xin MMR, vốn có chứa thimerosal chứa thủy ngân. Trên thực tế, có khoảng 5.000 vụ kiện liên quan đến chứng tự kỷ đang chờ xét xử và kháng cáo tại nhiều tòa án Hoa Kỳ kể từ năm 2002.
Tuy nhiên, năm 2007 là một bước ngoặt trong lịch sử kiện tụng liên quan đến thimerosal. Chính vào thời điểm đó, Tòa án Vắc-xin đã bắt đầu xét xử chín vụ án thử nghiệm dựa trên ba giả thuyết trong Biên bản xét xử Tự kỷ Toàn diện nổi tiếng.
Các vụ án được lựa chọn và phân loại dựa trên ba giả định: sự kết hợp giữa vắc-xin MMR và thimerosal gây ra chứng tự kỷ; chỉ riêng thimerosal gây ra chứng tự kỷ; và chỉ riêng vắc-xin MMR gây ra chứng tự kỷ. Kể từ đó, nhiều vụ án đã được xét xử, bác bỏ và phán quyết có lợi cho nguyên đơn. Một trong số đó, vụ án Hannah Poling năm 2008, đặc biệt mang tính đột phá.
Hannah Poling đã được tiêm năm loại vắc-xin phòng ngừa chín loại bệnh chỉ trong một ngày khi em mới 19 tháng tuổi vào năm 2000. Đó là các loại vắc-xin phòng bệnh sởi, quai bị, rubella, thủy đậu, bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt và Haemophilus influenzae.
Chỉ vài ngày sau, đứa trẻ bình thường, khỏe mạnh, hoạt bát bỗng trở nên lờ đờ, cáu kỉnh, sốt cao và không nói được. Bé cũng bắt đầu lên cơn co giật và có những hành vi lặp đi lặp lại điển hình của chứng tự kỷ.
Nói cách khác, chỉ sau một đêm, Hannah bắt đầu xuất hiện các triệu chứng của rối loạn phổ tự kỷ. Một số chuyên gia gọi đây là "tự kỷ thoái triển" vì các triệu chứng của cô bé xuất hiện và thoái triển sau khi đứa trẻ bắt đầu đạt được các mốc phát triển bình thường.
Hannah được chẩn đoán mắc chứng "bệnh não", một thuật ngữ y khoa tổng quát chỉ "bệnh não". Cô bé cũng được phát hiện mắc chứng rối loạn ty thể, một căn bệnh hiếm gặp ở trẻ tự kỷ.
Sau đó, vào năm 2008, vụ việc đột ngột bị loại khỏi lịch xét xử thử nghiệm của Tòa án Vắc-xin khi chính phủ liên bang chấp nhận đơn kiện và quyết định bồi thường cho gia đình. Đây là một quyết định mang tính bước ngoặt đối với các bậc cha mẹ có con đã đệ đơn kiện liên quan đến chứng tự kỷ, vì gia đình Poling không bị yêu cầu chứng minh mối liên hệ nhân quả giữa chứng tự kỷ và vắc-xin chứa thimerosal mà đứa trẻ đã tiêm.
Bộ Tư pháp đã ra sắc lệnh rằng gia đình Poling sẽ được bồi thường vì "việc tiêm chủng đã làm trầm trọng thêm đáng kể một rối loạn ty thể tiềm ẩn và biểu hiện dưới dạng bệnh não thoái triển với các đặc điểm của rối loạn phổ tự kỷ."
Phán quyết này không chỉ được đưa ra bất chấp sự vắng mặt của "mối liên hệ nhân quả" được tranh luận nhiều và thổi phồng quá mức, mà còn xác nhận điều mà một số nhà nghiên cứu đã tranh luận trong nhiều năm - rằng vắc-xin và thimerosal trong nhiều loại vắc-xin có thể gây ra các rối loạn nghiêm trọng như chứng tự kỷ ở trẻ em có cơ địa dễ mắc bệnh nhưng không phát triển các triệu chứng nếu không được tiêm vắc-xin.
Một vụ án quan trọng khác được Tòa án Vắc-xin phán quyết có lợi cho nguyên đơn là vụ án của Bailey Banks, 10 tuổi. Vụ án được xét xử vào tháng 6 năm 2007, khi tòa án phán quyết rằng gia đình cậu bé Bailey đã chứng minh được rằng vắc-xin MMR mà cậu bé đã tiêm là nguyên nhân gây ra chứng rối loạn của cậu.
Bailey được chẩn đoán mắc chứng Rối loạn Phát triển Lan tỏa (PDD), một trong nhiều loại Rối loạn Phổ tự kỷ. Tòa án kết luận rằng nguyên đơn đã chứng minh được rằng vắc-xin MMR đã dẫn đến một bệnh viêm não gọi là Viêm não tủy lan tỏa cấp tính (ADEM), và điều này đã dẫn đến PDD.
Tòa án đã đưa ra phán quyết có lợi cho nhiều gia đình gặp khó khăn khi con em họ bắt đầu biểu hiện các triệu chứng của ASD sau khi được tiêm chủng theo lịch trình của chính phủ. Trên thực tế, các báo cáo điều tra đã tiết lộ rằng kể từ khi được thành lập vào năm 1988, tòa án đã bồi thường hàng triệu đô la cho hơn 1.300 gia đình chỉ riêng trong các trường hợp tổn thương não do tiêm chủng.
>>Tiếp: 8.9 Có nên tiêm vắc-xin hay không?
8.7 Bí mật bẩn thỉu của Merck
>>Trước: 8.6 Che đậy công phu
Gần một thập kỷ trước khi các nhà sản xuất vắc-xin phải ngừng sử dụng thimerosal trong vắc-xin dành cho trẻ em, Merck đã biết rằng vắc-xin của họ khiến trẻ sơ sinh tiếp xúc với hàm lượng thủy ngân cao gấp 87 lần mức cho phép.
Sự thật gây sốc này được ghi lại trong một bản ghi nhớ mật được viết vào năm 1991 bởi Tiến sĩ Maurice Hilleman, một trong những người sáng lập chương trình vắc-xin của Merck và là phó chủ tịch cấp cao đã nghỉ hưu của công ty. Bản ghi nhớ được gửi đến người đứng đầu bộ phận vắc-xin của công ty lúc bấy giờ, Tiến sĩ Gordon Douglas.
Tiến sĩ Hilleman đã bày tỏ lo ngại về vắc-xin của công ty vì Thụy Điển và một số quốc gia Scandinavia khác vừa cấm sử dụng thimerosal trong vắc-xin. Do đó, để có thể cạnh tranh trên thị trường Scandinavia, Merck sẽ phải sản xuất vắc-xin không chứa thimerosal, Tiến sĩ Hilleman chỉ ra.
Trong bản ghi nhớ dài bảy trang, chuyên gia vắc-xin cấp cao đã trình bày một phân tích về phơi nhiễm thủy ngân ở trẻ sơ sinh Mỹ thông qua vắc-xin. Ông nói rằng "sẽ hợp lý khi kết luận rằng thimerosal (chất này) nên bị loại khỏi việc sử dụng trong vắc-xin cho trẻ em".
Trớ trêu thay, bản ghi nhớ Hilleman bị rò rỉ được viết cùng lúc với thời điểm Lịch tiêm chủng cho trẻ em vừa đưa vào một số loại vắc-xin mới cho trẻ sơ sinh, bao gồm một số loại có liều lượng thimerosal cao.
Không cần phải nói, bản ghi nhớ đã bị Merck phớt lờ, họ nhắm mắt làm ngơ trước bằng chứng ngày càng nhiều về mối tương quan giữa thủy ngân và các rối loạn thần kinh và tìm cách biện minh cho thực tế là không thể thiết lập được "mối liên hệ nhân quả" không thể chối cãi.
Khi một gia đình Texas kiện Merck, yêu cầu công ty cung cấp bản sao biên bản ghi nhớ của Hilleman, công ty dược phẩm lớn này chỉ nhún vai. Họ tuyên bố rằng dịch vụ sao chép chịu trách nhiệm sao chụp bằng chứng cho vụ kiện đã "quên" sao chép biên bản ghi nhớ gây tranh cãi cùng với một số tài liệu khác!
Giải pháp sẽ dễ dàng hơn nhiều so với Merck và các công ty khác
Điều mà các nhà sản xuất vắc-xin cần làm là chuyển sang sản xuất vắc-xin liều đơn vì chỉ có vắc-xin liều nhiều, thường được tiêm cho trẻ sơ sinh, mới bắt buộc phải chứa chất bảo quản.
Nhưng có một vấn đề - điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi nhuận ròng vì chi phí sản xuất vắc-xin liều đơn nhỏ hơn sẽ cao hơn đáng kể. Điều này, đến lượt nó, sẽ tác động tiêu cực đến doanh số bán vắc-xin cho các nước đang phát triển, nơi các công ty dược phẩm lớn như Merck thường xuyên bán phá giá các lọ vắc-xin gây tranh cãi của họ.
Vì vậy, các công ty dược phẩm lớn ở Mỹ vẫn tiếp tục sản xuất vắc-xin đa liều ngay cả khi chính quyền liên bang liên tục đưa ngày càng nhiều mũi tiêm vào Lịch tiêm chủng cho trẻ em. Cho đến khi lệnh cấm được ban hành vào năm 1999 và thimerosal bị cấm sử dụng trong vắc-xin nhi khoa.
Nhưng Merck không phải là công ty dược phẩm duy nhất bị cáo buộc che giấu những bí mật gây sốc. Eli Lilly, người đã giới thiệu thimerosal vào thế giới dược phẩm vào những năm 1920 và bắt đầu bán nó trên quy mô lớn vào những năm 1940, cũng đang che giấu một bí mật đen tối không kém.
Thông tin mật tiết lộ rằng tập đoàn dược phẩm quốc tế lớn này đã nhận thức được rằng chất bảo quản của họ có thể gây ra những tổn hại nghiêm trọng. Hơn 20 bệnh nhân được thử nghiệm với thimerosal vào những năm 1930 đã tử vong ngay sau khi được thử nghiệm. Tuy nhiên, Eli Lilly vẫn khẳng định hóa chất này an toàn cho con người khi công bố kết quả thử nghiệm lâm sàng.
Năm năm sau, khi một công ty dược phẩm đối thủ chỉ ra rằng nghiên cứu của Eli Lilly không phù hợp với nghiên cứu của họ, Eli Lilly đã bỏ qua lời cảnh báo này.
Bất chấp những lo ngại quốc tế về thimerosal, chất bảo quản này vẫn được sử dụng trong nhiều loại thuốc không kê đơn và mỹ phẩm tại Hoa Kỳ. Theo một số nhà nghiên cứu, tỷ lệ tự kỷ ở các quốc gia nhận vắc-xin từ Hoa Kỳ đã tăng vọt tương ứng, bao gồm cả Trung Quốc. Trước năm 1999, khi vắc-xin Hoa Kỳ được đưa vào nước này, căn bệnh này từng không tồn tại ở quốc gia châu Á này, thì hiện nay, ước tính Trung Quốc có gần 2 triệu trẻ em mắc chứng tự kỷ.
Các quốc gia khác đang sử dụng vắc-xin sản xuất tại Hoa Kỳ cũng bị ảnh hưởng tương tự, bao gồm các quốc gia ở Nam Mỹ, Châu Á và Châu Phi.
Nhưng đừng tự lừa mình dối người. Các tập đoàn dược phẩm lớn chẳng hề quan tâm đến sức khỏe con người. Họ đã tác động một cách có hệ thống và hiệu quả lên tâm lý con người để thổi phồng huyền thoại rằng vắc-xin là một nghi thức bắt buộc. Có lẽ điều trớ trêu hơn là các cơ quan y tế công cộng Hoa Kỳ và WHO vẫn còn ẩn náu sau những luận điệu sáo rỗng đang dần trở nên lỗi thời, rằng "vấn đề vắc-xin và tự kỷ vẫn còn là một chủ đề gây tranh cãi".
>>Tiếp: 8.8 Vụ kiện mang tính bước ngoặt
8.6 Che đậy công phu
>>Trước: 8.5 Cuộc tranh luận về Thimerosal
Ngay cả khi CDC đưa ra tuyên bố chung yêu cầu tất cả các nhà sản xuất vắc-xin loại bỏ thimerosal khỏi tất cả các loại vắc-xin dành cho trẻ em vào năm 1999, thì một loạt sự kiện gần như tàn ác đã xảy ra.
Chẳng cần bận tâm đến việc họ không thể giữ lại chất bảo quản nguy hiểm này trong vắc-xin; kế hoạch tỉ mỉ này nhằm mục đích che đậy các cơ quan y tế công cộng vốn đã ủng hộ đủ loại vắc-xin cho trẻ em. Do đó, CDC đã làm nhiều cách để duy trì hiện trạng một cách tinh tế nhưng kiên quyết nhất có thể.
Một trong những diễn biến đằng sau hành động hai mặt này là việc SmithKline Beecham từ chối sản xuất vắc-xin DTaP không chứa thimerosal. Sau chỉ thị của CDC gửi đến các công ty dược phẩm, nhà sản xuất vắc-xin này đã thông báo với cơ quan y tế chính phủ vào tháng 7 năm 1999 rằng họ đã sẵn sàng sản xuất vắc-xin DTaP không chứa thimerosal. Công ty cho biết họ có thể bắt đầu sản xuất các loại vắc-xin biến đổi này ngay lập tức và sản xuất đủ lượng dự trữ đến giữa năm 2000, khi đó các nhà sản xuất vắc-xin khác sẽ sẵn sàng với lượng dự trữ lớn hơn.
Vào thời điểm đó, trẻ sơ sinh được tiêm ba mũi vắc-xin DTaP khi được 2, 4 và 6 tháng tuổi - mỗi mũi chứa 25 mcg thimerosal.
Thật bất ngờ, năm tháng sau, CDC đã từ chối lời đề nghị này! Các quan chức chính phủ đã thừa nhận riêng rằng có nhiều lý do cho quyết định khó hiểu này. Thứ nhất, CDC không muốn gây nguy hiểm cho chương trình vắc-xin của mình. Thứ hai, trước những chỉ trích gay gắt, họ muốn giữ thể diện. Thứ ba, họ không muốn làm phật lòng "bạn bè và cộng sự" trong ngành công nghiệp vắc-xin, cũng như không muốn các nhà sản xuất vắc-xin phải chịu chi phí cắt cổ do việc sản xuất và tiếp thị hàng loạt vắc-xin biến đổi.
Nhưng lý do thứ tư có vẻ thuyết phục nhất. Dường như Tổ chức Y tế Thế giới lo ngại rằng việc cấm thimerosal ở Hoa Kỳ sẽ gây nguy hiểm cho các chương trình tiêm chủng đại trà của họ ở các nước đang phát triển. Cuối cùng, CDC đã phải bỏ cuộc. Trong một tuyên bố vào tháng 7 năm 2000, CDC buộc phải tuyên bố rằng sẽ không có vắc-xin nào dành cho trẻ em chứa thimerosal vào đầu năm 2001.
Tuy nhiên, một tháng trước khi đưa ra tuyên bố này, CDC đã dàn dựng một vụ che giấu bí mật về thimerosal, gây chấn động giới y khoa ba năm sau đó khi thông tin bị rò rỉ. Địa điểm: Simpsonwood ở Norcross, Georgia. Thời gian: Tháng 6 năm 2000. Người triệu tập: CDC. Thành phần tham gia: các quan chức chính phủ cấp cao, các nhà khoa học từ CDC và FDA, các chuyên gia vắc-xin từ WHO, các chuyên gia trong lĩnh vực tự kỷ, nhi khoa, độc chất học, dịch tễ học và vắc-xin, cùng đại diện của tất cả các nhà sản xuất vắc-xin lớn, bao gồm GlaxoSmithKline, Merck, Wyeth và Aventis Pasteur.
Không có thông báo công khai nào và hội nghị được giữ bí mật với giới truyền thông. Việc tham dự tại địa điểm biệt lập này chỉ dành cho những người được mời. Năm mươi hai người tham dự đã đến, những người được thông báo rằng các cuộc thảo luận và tài liệu tại các cuộc họp đã 'được phân loại'.
Được gọi là "Đánh giá Khoa học về Thông tin Liên kết Dữ liệu An toàn Vắc-xin", hội nghị này chỉ có một mục tiêu duy nhất: thảo luận về nỗi lo sợ thimerosal đã gây ra trong công chúng và cộng đồng y tế - và các cách dập tắt ngọn lửa bùng lên từ một nghiên cứu về tác động tàn phá của chất bảo quản vắc-xin và mối liên hệ tiềm tàng của nó với chứng tự kỷ. Trớ trêu thay, nghiên cứu này lại được thực hiện bởi Tiến sĩ Thomas Verstraeten, một nhà dịch tễ học của CDC!
Nghiên cứu này được yêu cầu thực hiện vào năm 1997, khi Quốc hội thông qua nghị quyết yêu cầu FDA xem xét lại việc sử dụng thimerosal trong tất cả các chế phẩm sinh học, bao gồm cả vắc-xin. Verstraeten đã phân tích cơ sở dữ liệu của CDC, bao gồm hồ sơ bệnh án của 100.000 trẻ em, và thảo luận về những phát hiện của mình tại hội nghị Simpsonwood. Nghiên cứu của ông cho thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa thimerosal và các rối loạn thần kinh ở trẻ em.
Hai ngày tiếp theo là các cuộc thảo luận về cách giữ kín những phát hiện của Verstraeten với công chúng. Nhờ Đạo luật Tự do Thông tin, chi tiết các cuộc họp cuối cùng đã được công khai, khiến người Mỹ bàng hoàng khi thấy những người giám sát sức khỏe và an toàn cộng đồng của họ lại tìm cách che giấu sự việc thay vì hành động để khắc phục thiệt hại đã gây ra cho hàng triệu trẻ em.
Bản thân Verstraeten đã nói rằng ông "sửng sốt" trước những gì dữ liệu trình bày. Các nhà khoa học khác lo ngại rằng dữ liệu mà CDC đang nắm giữ sẽ trở thành mồi ngon cho vô số vụ kiện nếu nó rơi vào tay công chúng.
Sau cuộc họp kín, CDC đã triển khai một loạt biện pháp nhằm kiểm soát thiệt hại ngay lập tức. Thứ nhất, họ giữ kín những phát hiện của Verstraeten, công khai tuyên bố rằng dữ liệu gốc đã bị mất. Thứ hai, cơ quan này đã ủy quyền cho Viện Y học (đã thảo luận trước đó trong chương này) thực hiện một nghiên cứu khác để phản bác lại những gì Verstraeten đã phát hiện. Thứ ba, CDC đã bàn giao cơ sở dữ liệu khổng lồ của mình cho một cơ quan tư nhân, qua đó đưa dữ liệu liên quan đến thimerosal đáng lên án của họ ra khỏi phạm vi của Đạo luật Tự do Thông tin.
Và thứ tư, Verstraeten buộc phải "sửa lại" những phát hiện của mình và công bố những kết quả đã được sửa đổi này vào năm 2003. Những phát hiện này, đúng như dự đoán, khẳng định rằng không hề có mối liên hệ nào giữa chất bảo quản chứa thủy ngân và chứng tự kỷ. Nhưng còn một điều bất ngờ nữa: Vào thời điểm Verstraeten công bố những kết quả đã được sửa đổi, cựu chuyên gia dịch tễ học cấp cao của CDC đã chuyển sang làm việc cho Big Pharma và đang làm việc cho GlaxoSmithKline!
Ngoài việc muốn 'giữ thể diện', CDC và FDA còn muốn bảo vệ lợi ích - chủ yếu là tài chính - của các nhà sản xuất vắc-xin. Do đó, khi FDA và CDC buộc phải chỉ đạo các công ty dược phẩm ngừng sử dụng thimerosal trong vắc-xin, họ đã mua hết số vắc-xin "gây hại" và thông qua WHO bán chúng cho các nước đang phát triển để phục vụ chương trình tiêm chủng của họ. Số vắc-xin còn lại của các nhà sản xuất tiếp tục được tiêm cho trẻ em Mỹ cho đến khi hết hàng.
>>Tiếp: 8.7 Bí mật bẩn thỉu của Merck
8.5 Cuộc tranh luận về Thimerosal
>>Trước: 8.4 Tự kỷ và bệnh tự miễn
Thimerosal đã được sử dụng trong nhiều công thức y tế khác nhau bao gồm cả vắc-xin từ những năm 1930. Nhưng vào những năm 1980, sự lo lắng của công chúng về vắc-xin và những tác hại của chúng đối với trẻ em ngày càng gia tăng và bắt đầu lan rộng. Điều này dẫn đến sự gia tăng số lượng các vụ kiện dân sự chống lại các nhà sản xuất vắc-xin, đặc biệt liên quan đến mối liên hệ có thể có giữa vắc-xin DTaP chứa thimerosal và chứng tự kỷ.
Trên thực tế, đã có hơn 1.000 vụ kiện được đệ trình từ năm 1979 đến năm 1997, chỉ riêng đối với các nhà sản xuất vắc-xin Dtap, với số vụ kiện lớn nhất trong một năm là 255 vụ vào năm 1988.
Lo ngại rằng các bậc cha mẹ sẽ ngừng tiêm vắc-xin Dtap cho con cái và lo sợ bị phản ứng dữ dội, chính phủ Hoa Kỳ đã thành lập Chương trình bồi thường thương tích do vắc-xin quốc gia (VCIP) vào năm 1988 (trùng với số lượng lớn các vụ kiện liên quan đến vắc-xin được đệ trình trong năm đó).
Được gọi không chính thức là "Tòa án Vắc-xin", diễn đàn pháp lý này được cho là một nền tảng pháp lý độc lập cho các vụ kiện liên quan đến vắc-xin, nhưng các quy tắc rất nghiêm ngặt. Nó đặt gánh nặng chứng minh "mối liên hệ nhân quả" giữa vắc-xin và tác dụng của nó lên nguyên đơn để nguyên đơn nhận được bồi thường.
Một thập kỷ sau, lá cờ đỏ lại một lần nữa được giương lên vào năm 1997, lần này là từ Frank Pallone Jr., một nghị sĩ Đảng Dân chủ ở New Jersey, người có thẩm quyền quản lý hàng chục thị trấn đánh cá nhỏ, nơi hàm lượng thủy ngân trong cá đang gây ra những lo ngại nghiêm trọng về sức khỏe. Cuối cùng, Đạo luật Hiện đại hóa Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm đã được ký thành luật vào tháng 11 năm 1997, trong đó yêu cầu xem xét lại hàm lượng thủy ngân trong nhiều loại thực phẩm và thuốc, bao gồm cả vắc-xin.
Đánh giá của FDA về mức độ thủy ngân mà trẻ sơ sinh tiếp nhận thông qua chương trình tiêm chủng được công bố hai năm sau đó. Nó đã cảnh báo Tiến sĩ Neal Halsey, lúc đó là Giám đốc Viện An toàn Vắc-xin tại Trường Y tế Công cộng Johns Hopkins.
Tiến sĩ Halsey, người đã làm việc với chương trình tiêm chủng liên bang và một số cơ quan y tế chính phủ, đã nghiên cứu dữ liệu trước khi công bố quan điểm của mình. Ông nói rằng ông lo ngại rằng thủy ngân trong vắc-xin dành cho trẻ em có thể "gây ra suy giảm thần kinh và khó khăn học tập tinh vi" ở những trẻ đã tiêm vắc-xin.
Tuyên bố của Tiến sĩ Halsey đã gây ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ, và các đồng nghiệp ủng hộ tiêm chủng của ông, FDA và các cơ quan chính phủ khác đang thúc đẩy chương trình tiêm chủng cho trẻ em, đã vô cùng tức giận. Cuối cùng, mặc dù chưa có mối quan hệ nhân quả nào được xác định giữa thimerosal và chứng tự kỷ, nhưng các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra lời giải đáp.
Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ và Dịch vụ Y tế Công cộng Hoa Kỳ đã đưa ra khuyến nghị chung vào năm 1999, nêu rõ rằng thimerosal phải được giảm hoặc loại bỏ khỏi tất cả các loại vắc-xin tiêm cho trẻ sơ sinh. Đây là một bước ngoặt trong lịch sử tiêm chủng.
Nhưng vẫn còn nhiều tin tốt hơn. Cho dù xuất phát từ những lo ngại về thimerosal đối với sức khỏe, hay đơn giản là do áp lực dư luận, hoặc do nhu cầu cấp thiết phải tránh gây thêm phẫn nộ, FDA và CDC vào năm 2001 đã quyết định chỉ đạo các nhà sản xuất vắc-xin ngừng sử dụng thimerosal trong vắc-xin dành cho trẻ em. Loại vắc-xin duy nhất vẫn còn chứa chất bảo quản chứa thủy ngân này là một số mũi tiêm cúm được khuyến nghị cho trẻ em từ 6 tháng tuổi trở lên.
Nhưng ngay cả khi có mối liên hệ chặt chẽ giữa thimerosal và chứng tự kỷ, chất bảo quản độc hại này không phải là chất độc thần kinh duy nhất góp phần gây ra căn bệnh nghiêm trọng này ở trẻ em. Chất độc thần kinh tấn công cơ thể từ nhiều nguồn cùng một lúc - chất tẩy rửa gia dụng, sản phẩm tiêu dùng, thực phẩm chế biến và các chế phẩm y tế - và dường như tất cả đều tích tụ lại.
Để minh họa tình hình đáng báo động này, hãy đọc bài viết này: Vào tháng 12 năm 2009, CDC đã công bố một báo cáo cho biết số ca tự kỷ và rối loạn phổ tự kỷ đã tăng 57% trong giai đoạn 2002-2006. Tức là cứ 110 trẻ em thì có một trẻ mắc chứng tự kỷ (chiếm hơn 1% dân số trẻ em), trong đó có 1/70 bé trai. Tại thời điểm viết bài này, cứ 94 trẻ em thì có 1 trẻ được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ. Nói cách khác, xu hướng này vẫn tiếp tục không ngừng.
Người nộp thuế cũng phải trả giá đắt. Năm 2007, ước tính 35 tỷ đô la tiền công quỹ đã được chi cho việc điều trị căn bệnh này.
>>Tiếp: 8.6 Che đậy công phu
8.4 Tự kỷ và bệnh tự miễn
>>Trước: 8.3 Chất bảo quản độc hại
Nghiên cứu về chứng tự kỷ và bệnh tự miễn đã phát hiện ra một số cách mà tổn thương thần kinh có thể dẫn đến các triệu chứng liên quan đến tự kỷ. Một trong những cách này là tổn thương bao myelin của các dây thần kinh trong não.
Mỗi tế bào thần kinh trong cơ thể đều được bao phủ bởi một lớp vỏ myelin, một lớp mỡ giúp dẫn truyền xung thần kinh và bảo vệ tế bào thần kinh. Vỏ myelin gần như không có trong bộ não mỏng manh của trẻ sơ sinh ngay từ khi sinh ra. Nó bắt đầu phát triển dần dần, bắt đầu từ giai đoạn bào thai và tiếp tục cho đến 10 tuổi.
Nó bắt đầu phát triển ở các vùng "dưới" của não và cuối cùng đến thùy trán hoặc các trung tâm "cao hơn" chịu trách nhiệm cho khả năng suy nghĩ, nói, giao tiếp và cảm nhận những cảm xúc khác biệt. Tất cả những chức năng này đều bị suy giảm ở các mức độ khác nhau ở trẻ tự kỷ.
Các nghiên cứu về mối liên hệ giữa bệnh tự kỷ và bệnh tự miễn dịch đã phát hiện ra rằng nhiều trẻ tự kỷ có kháng thể trong máu được cho là tấn công hai loại protein quan trọng của não - Protein cơ bản Myelin (MBP) và Protein sợi trục thần kinh.
Xin lưu ý: Cá nhân tôi không đồng ý với cách diễn giải rằng kháng thể tấn công các tế bào, mà đúng hơn, tôi cho rằng cơ thể sản sinh ra các kháng thể này để giúp tự chữa lành và loại bỏ các độc tố tích tụ đã xâm nhập vào tế bào và mô do tiêm chủng. Như tôi đã đề cập, kháng thể và bạch cầu chủ yếu tham gia vào quá trình chữa lành, chứ không phải chiến đấu. Phản ứng miễn dịch thích hợp này rõ ràng sử dụng tình trạng viêm mô để đào thải độc tố, phá vỡ các tế bào bị tổn thương, tạo ra mô sẹo và thúc đẩy quá trình chữa lành càng nhiều càng tốt, xét đến tình trạng ngộ độc nghiêm trọng hiện nay. Do đó, tôi ngần ngại sử dụng các từ "tự miễn" và "bệnh" khi liên quan đến chứng tự kỷ hoặc các bệnh tự miễn khác khi thực tế nó liên quan đến khả năng tự điều chỉnh của cơ thể để tự bảo vệ chứ không phải là hành động tự hủy diệt. Tuy nhiên, tôi sẽ tiếp tục sử dụng các ý tưởng của hiểu biết y học hiện tại để giải thích tại sao vắc-xin lại gây ra tổn thương não.
Cuối cùng, cách chúng ta nhìn nhận tình hình không thực sự quan trọng. Sự thật vẫn là việc đổ một hỗn hợp kim loại nặng, formaldehyde, kháng sinh, chất chống đông, các bộ phận cơ thể lạ, v.v. vào máu và não của một đứa trẻ đang phát triển, vốn không có khả năng lọc sạch đống độc tố này, chính là một cuộc tấn công ở mức độ cao nhất.
Quay trở lại cuộc thảo luận, tất cả những điều này có nghĩa là bao myelin đang phát triển của các tế bào thần kinh não bị chính cơ thể tấn công hoặc bị ngăn cản hình thành đúng cách do tiếp xúc với các thành phần vắc-xin gây chết người. Điều này, đến lượt nó, gây tổn thương các dây thần kinh và do đó ảnh hưởng đến các chức năng mà chúng kiểm soát. Có nhiều điểm tương đồng giữa kháng thể kháng MBP được tìm thấy ở trẻ tự kỷ và ở những người mắc các bệnh tự miễn khác như lupus ban đỏ hệ thống, bệnh tuyến giáp, viêm khớp dạng thấp, tiểu đường phụ thuộc insulin và bệnh đa xơ cứng.
Và có nhiều lý do tại sao sự bất thường này tồn tại, bao gồm các yếu tố di truyền, sự tấn công của các vi sinh vật như virus rubella và nhiễm cytomegalovirus (cả hai đều có liên quan đến chứng tự kỷ), kháng thể truyền từ mẹ sang con, và sự kích hoạt miễn dịch bất thường. Đây là yếu tố cuối cùng chúng ta quan tâm trong cuộc thảo luận về chứng tự kỷ và bệnh tự miễn - sự kích hoạt miễn dịch bất thường do vắc-xin gây ra.
Ở phần trước của cuốn sách này (Xem Chương 5: Hậu quả của vắc-xin), chúng ta đã thảo luận về một số cách mà vắc-xin gây ra phản ứng miễn dịch bất thường.
Hơn nữa, thủy ngân có trong một số loại vắc-xin là một trong nhiều thành phần liên quan đến phản ứng tự miễn dịch.
Phản ứng miễn dịch qua trung gian kháng thể hoặc kháng thể chống lại não có thể được thúc đẩy bởi các thành phần và chất gây ô nhiễm khác như tá dược nhôm, chất bảo quản, kháng sinh (riêng những chất này chứa hàng trăm thành phần hoạt tính như penicillin, bacitracin, chloram-phenicol, gentamicin sulfat, neomycin sulfat, polymyxin B, oxytetra-cycline, kanamycin, streptomycin, sulfametrole, tosufloxacin, cycloserine, astromicin, v.v.) cũng như các protein lạ có nguồn gốc từ người và/hoặc động vật thường có nhiều trong vắc-xin.
Đây là một cách khác để xem xét cùng một tác động. Virus bại liệt được cho là tấn công và làm tổn thương bao myelin, dẫn đến viêm tủy sống. Trong nhiều trường hợp, bại liệt gây ra liệt, hậu quả là tổn thương não và hệ thần kinh.
Nghiên cứu về tiêm chủng trong nhiều năm qua luôn liên kết vắc-xin với bệnh viêm não, dẫn đến mất myelin ở các dây thần kinh. Kết luận này là không thể chối cãi.
>>Tiếp: 8.5 Cuộc tranh luận về Thimerosal
8.3 Chất bảo quản độc hại
>>Trước: 8.2 Mối liên hệ giữa vắc-xin và bệnh tự kỷ
Như đã đề cập trước đó, não bộ của trẻ tự kỷ biểu hiện sự suy giảm khả năng xử lý thông tin nhận thức. Tự kỷ cũng liên quan đến sự phát triển cảm xúc kém. Ngoài ra, ngôn ngữ, giao tiếp và các kỹ năng xã hội cũng bị chậm phát triển.
Sự bất lực trong việc xử lý, tích hợp và hiểu thông tin một cách hiệu quả của não bộ cho thấy sự thiếu phát triển đầy đủ hoặc tổn thương ở một số vùng của vỏ não, nơi kiểm soát các chức năng khác nhau này.
Tổn thương này liên quan đến hệ thần kinh trung ương và do đó mang tính chất thần kinh. Điều này liên quan thế nào đến thực tế là dường như có tỷ lệ rối loạn chức năng tự miễn dịch cao hơn về mặt thống kê, bao gồm tăng cường tự miễn dịch và giảm chức năng miễn dịch - ở trẻ tự kỷ?
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng vắc-xin và các thành phần của chúng tác động đến hệ miễn dịch - thực tế, vắc-xin tác động thông qua chính hệ miễn dịch và làm thay đổi chức năng của nó trong quá trình này. Điều này đôi khi dẫn đến rối loạn chức năng miễn dịch, bao gồm cả các rối loạn tự miễn.
Trẻ sơ sinh được tiêm vắc-xin chứa thủy ngân - bao gồm cả việc tiêm nhắc lại nhiều lần khiến trẻ tiếp xúc với kim loại nặng độc hại này ngay từ khi còn rất nhỏ - do đó trở thành nạn nhân của cả hai tác hại. Vì vậy, nếu bản thân vắc-xin đã đủ độc hại, thì thủy ngân trong một số loại vắc-xin còn gây ra nhiều tác hại hơn nữa.
Điều này đặc biệt đúng với trẻ sơ sinh, vì não bộ, hệ thần kinh, hệ miễn dịch và toàn bộ cơ thể của trẻ không chỉ hoạt động khác với người lớn mà còn dễ bị tổn thương hơn trước những tác động nguy hiểm của vắc-xin và các thành phần khác nhau của chúng.
Nhưng chính xác thì tại sao thủy ngân lại tàn phá cơ thể con người đến vậy? Thủy ngân tồn tại ở ba dạng - hữu cơ, vô cơ và nguyên tố. Khi đi vào máu, kim loại nặng này gây tổn thương tim, não, thận, phổi và hệ miễn dịch. Loại và mức độ tổn thương phụ thuộc vào loại và lượng thủy ngân đi vào máu, độ tuổi của cá nhân và thời gian tiếp xúc với nó.
Theo truyền thống, nguồn gây ngộ độc thủy ngân là ô nhiễm nước và cá sống trong nước, thủy ngân trong chất trám răng và từ việc đốt than và các sản phẩm khác. Ngoài vắc-xin, nhiều loại thuốc không kê đơn cũng chứa thimerosal như một chất bảo quản.
Cũng giống như chứng tự kỷ, nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nam giới dễ bị ngộ độc thủy ngân hơn nữ giới, đặc biệt là trẻ em. Lý do trẻ sơ sinh dễ bị nhiễm kim loại nặng này nhất là do hàng rào máu não, vốn ngăn các chất độc hại xâm nhập vào não, chưa phát triển như ở người lớn.
Ngoài ra, khi hàng rào máu não phát triển, nó ngăn không cho thủy ngân đã lọt qua nó thoát ra ngoài, đó là lý do tại sao thủy ngân bị mắc kẹt trong não trẻ em. Thông thường, chứng tự kỷ xuất hiện ở độ tuổi từ 18 tháng đến hai tuổi. Tuy nhiên, sự tích tụ chậm của thủy ngân và việc tác hại của hóa chất này chỉ xuất hiện sau đó, là lý do tại sao nhiều trẻ sơ sinh đã được tiêm chủng vẫn biểu hiện các triệu chứng tự kỷ sau vài tháng.
Một vấn đề khác với ngộ độc thủy ngân là kim loại nặng này có xu hướng tồn tại trong cơ thể ngay cả ở người lớn. Giống như tất cả các chất độc khác, máu đưa thủy ngân đến gan để phân hủy và bài tiết. Tuy nhiên, thay vì giải độc, gan lại dẫn thủy ngân đến mật, sau đó mật lại đổ vào đường tiêu hóa. Thủy ngân sau đó được tái hấp thu vào máu, rồi lưu thông trong máu và gây thêm nhiều tác hại về chuyển hóa và thần kinh.
Sau khi chỉ ra mối liên hệ giữa thủy ngân, chứng tự kỷ và bệnh tự miễn, chúng ta hãy nghiên cứu mối liên hệ giữa các sự kết hợp khác nhau của ba yếu tố này.
>>Tiếp: 8.4 Tự kỷ và bệnh tự miễn
8.2 Mối liên hệ giữa vắc-xin và bệnh tự kỷ
>>Trước: 8.1 Giới thiệu Thimerosal
Mặc dù vẫn còn nhiều điều chúng ta chưa biết về cơ thể con người và hệ thống miễn dịch, nhưng phần lớn các nhà nghiên cứu tin rằng vắc-xin và bệnh tự kỷ có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Đến giữa những năm 1990, tỷ lệ tự kỷ đã tăng vọt đến mức cha mẹ của những trẻ tự kỷ được tiêm chủng trong giai đoạn quan trọng từ năm 1988 đến năm 1991 bắt đầu phản đối công khai. Sau đó, hồi chuông cảnh báo bắt đầu vang lên mạnh mẽ vào đầu đến giữa những năm 1990, khiến Quốc hội phải thông qua Đạo luật Hiện đại hóa Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm vào năm 1997. Một trong những điều khoản của Đạo luật này là FDA phải xem xét hàm lượng thủy ngân trong các chế phẩm y tế khác nhau.
Đúng như dự đoán, FDA phát hiện ra rằng lượng thủy ngân quá mức được tiêm vào trẻ sơ sinh cao hơn nhiều so với giới hạn cho phép do tiêm nhiều liều vắc-xin viêm gan B và Hib. Những loại vắc-xin này, cùng với vắc-xin DTaP, vốn đã có trong Lịch tiêm chủng cho trẻ em từ lâu, đang khiến trẻ sơ sinh phải đối mặt với những nguy cơ sức khỏe nghiêm trọng.
Lượng thủy ngân này thực sự là bao nhiêu? Theo FDA, trẻ sơ sinh hấp thụ 187,5 microgam khi được 6 tháng tuổi, tức là nhiều hơn 40% so với lượng khuyến nghị nếu bạn lưu ý đến các hướng dẫn của Cơ quan Bảo vệ Môi trường!
CDC, vốn tiếp tục bị chỉ trích dữ dội về thimerosal, đã ủy quyền cho Viện Y học nghiên cứu việc tiếp xúc với thủy ngân qua vắc-xin ở trẻ sơ sinh và tìm hiểu xem liệu có mối liên hệ nào với chứng tự kỷ hay không. Khi trình bày những phát hiện của mình vào năm 2004, viện này đã tuyên bố chắc chắn rằng họ không tìm thấy "mối liên hệ nhân quả" nào giữa vắc-xin chứa thimerosal và chứng tự kỷ.
Một số người cho rằng viện này đã được đào tạo để cung cấp những kết quả này. Mặc dù thimerosal đã bị cấm sử dụng trong vắc-xin cho trẻ em vào thời điểm đó, các vụ kiện tụng về tác dụng của hóa chất này vẫn tiếp tục chồng chất, và CDC cần một cơ quan công quyền để "xua tan" những nghi ngờ này.
Tuy nhiên, trong số các "biến cố bất lợi" mà viện này phát hiện "liên quan chặt chẽ" đến vắc-xin DTaP và MMR có chứng tự kỷ và các rối loạn phổ tự kỷ. Có một loại biến cố bất lợi khác liệt kê chứng tự kỷ "thứ phát" (bạn đã từng nghe nói đến một căn bệnh "thứ phát" chưa?) là biến cố bất lợi, đó là các triệu chứng giống tự kỷ do bệnh não mãn tính (bất thường ở mô não) và rối loạn ty thể gây ra.
Viện này cũng tuyên bố rằng "về mặt sinh học, có khả năng" thimerosal có mối tương quan với "sự chậm phát triển thần kinh" ở một số trẻ em.
Tuy nhiên, CDC, FDA và các cơ quan y tế công cộng khác chỉ tập trung vào cụm từ "không có mối liên hệ nhân quả" và sử dụng nó để cố gắng trấn an công chúng cả tin rằng không có lý do gì để lo lắng về các loại vắc-xin chứa thimerosal được tiêm nhiều lần cho trẻ sơ sinh.
Tuy nhiên, nếu nhìn sâu hơn vào bức màn khói, kết quả nghiên cứu này chỉ xác nhận mối tương quan giữa thimerosal và chứng tự kỷ. Không thực sự dùng từ "gây ra" (Ôi, các cơ quan công quyền thích tranh cãi về từ ngữ đến thế!), viện này chỉ xác nhận mối tương quan giữa vắc-xin và các rối loạn tự kỷ.
Ngoài ra, CDC cũng yêu cầu viện này điều tra một khía cạnh khác của cuộc tranh luận về vắc-xin - rằng vắc-xin gây ra 'viêm thần kinh' và 'kích thích quá mức' hoặc 'kích thích quá mức' hệ thống miễn dịch.
Điều này được cho là đã diễn ra từ năm 1988, khi số lượng vắc-xin tăng đáng kể. Trên thực tế, cho đến nay, trẻ sơ sinh được tiêm tối thiểu 38 liều vắc-xin trước 18 tháng tuổi! (Xem CFS: 'Bại liệt thời đại mới' trong Chương 5: Hậu quả của vắc-xin). Nói một cách đơn giản: VICP tự hỏi liệu trẻ sơ sinh có đang được tiêm quá nhiều vắc-xin hay không.
Nhưng không chỉ sự kích thích quá mức tổng quát của hệ miễn dịch mới bị nghi ngờ có liên quan đến các rối loạn thần kinh. Cụ thể hơn, một số 'chất gây ô nhiễm' và các thành phần khác trong vắc-xin từ lâu đã được cho là có liên quan đến tổn thương thần kinh và mô.
Tôi xin trình bày một số phát hiện về vắc-xin sử dụng vắc-xin sống giảm độc lực. Đây là loại vắc-xin chứa một dạng vi-rút sống nhưng đã được làm yếu đi mà vắc-xin được cho là có khả năng bảo vệ.
Các nhà khoa học đã nuôi cấy và nhân bản các dạng virus yếu bằng cách tiêm vật liệu di truyền cơ bản của mầm bệnh vào vật chủ, có thể là nhiều loài động vật. Một trong những loại vắc-xin đó là Vắc-xin bại liệt uống (OPV). Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các đột biến có xu hướng tích tụ hoặc chồng chất sau mỗi lần tiêm vắc-xin tiếp theo và gây ra các phản ứng bất lợi.
Ngoài ra, đôi khi, virus giảm độc lực trong OPV được phát hiện tái kết hợp với các enterovirus trong cơ thể người, khiến virus bại liệt trở lại khả năng gây bệnh. Nói cách khác, quá trình này khơi dậy lại khả năng gây bệnh bại liệt của virus đã giảm độc lực.
Một nguồn lây nhiễm khác đến từ virus hiện diện trong vật chủ, phát triển virus đã giảm độc lực. Chúng tôi đã thảo luận chi tiết về sự lây nhiễm SV40 trong Chương 2: Những sai lầm lịch sử. Tuy nhiên, còn nhiều loại vật liệu di truyền và virus khác liên quan đến các loại vắc-xin cụ thể. Những virus ngẫu nhiên hoặc 'tình cờ' này đến từ các dòng tế bào được sử dụng để sản xuất và nhân lên virus đã giảm độc lực, cũng như từ huyết thanh động vật và các chế phẩm sinh học khác được sử dụng trong nuôi cấy tế bào.
Ví dụ, virus gây bệnh bạch cầu gia cầm (ALV) và virus nội sinh gia cầm (AEV) đã được tìm thấy trong vắc-xin giảm độc lực được nuôi cấy trên nguyên bào sợi phôi gà. ALV và AEV liên quan đến vắc-xin được cho là bắt nguồn từ các retrovirus nội sinh trong dòng mầm gà.
Theo một nghiên cứu do Hiệp hội Vi sinh vật học Hoa Kỳ thực hiện và được công bố vào năm 2010, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy Retrovirus K ở người, hay còn gọi là HERV-K, trong vắc-xin MMR và Varivax. Họ kết luận rằng HERV-K có nguồn gốc từ các dòng tế bào người được sử dụng để phát triển các loại virus này. Điều này dường như ủng hộ các nghiên cứu khác cho thấy một số bất thường về gen ở trẻ tự kỷ có liên quan đến sự hiện diện của HERV-K trong cơ thể chúng.
Một số nhà khoa học cũng phát hiện ra rằng sự gia tăng đột ngột của chứng tự kỷ ở Hoa Kỳ không chỉ liên quan đến sự gia tăng thimerosal trong vắc-xin dành cho trẻ em mà còn liên quan đến việc sử dụng tế bào thai nhi bị phá bỏ.
Theo một nghiên cứu của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA), chứng tự kỷ đã gia tăng đáng kể kể từ những năm 1980, gần như cùng thời điểm các công ty dược phẩm bắt đầu sử dụng tế bào thai nhi từ những ca phá thai trên quy mô lớn. Nghiên cứu này đã đối chiếu dữ liệu từ các nghiên cứu kéo dài hàng thập kỷ ở Hoa Kỳ, Đan Mạch và Nhật Bản.
Hơn nữa, những tế bào gốc thai nhi này đã được sử dụng trong các loại vắc-xin phổ biến như vắc-xin MMR. Không phải ngẫu nhiên mà tỷ lệ tự kỷ đạt đỉnh vào năm 1981, chỉ hai năm sau khi vắc-xin MMRII mới với tế bào thai nhi được phê duyệt và bắt đầu được tiêm cho trẻ sơ sinh trên quy mô lớn tại Hoa Kỳ.
Tỷ lệ tự kỷ cũng đạt đỉnh vào năm 1995, khi vắc-xin thủy đậu được cải tiến. Phiên bản vắc-xin này hiện chứa tế bào thai nhi. Và còn nhiều hơn thế nữa. Có đến 11 loại vắc-xin được tiêm chủng thường quy tại Hoa Kỳ có chứa tế bào thai nhi bị phá thai, bao gồm cả vắc-xin bại liệt và vắc-xin dại.
>>Tiếp: 8.3 Chất bảo quản độc hại
8. Chương 6 - Tự kỷ ~ Cuộc tấn công của thủy ngân
>>Trước: 7.7 DPT: Đột tử
Nếu quay ngược thời gian, lịch sử sẽ cho thấy nguồn gốc của tiêm chủng hàng loạt bắt nguồn từ những nỗ lực nhằm loại bỏ "các căn bệnh chết người và đe dọa tính mạng" khỏi dân số. Điều này diễn ra rất lâu trước khi các công ty dược phẩm lớn (Big Pharma) nhận ra cơ hội kiếm lời bằng cách định hình dư luận và thao túng các nhà hoạch định chính sách để thúc đẩy chương trình nghị sự của họ.
Vậy nên, ngay cả theo tiêu chuẩn của những người tin vào huyền thoại vắc-xin cơ bản, tiêm chủng được cho là cứu cánh. Chúng ta đã quay lại điểm xuất phát chỉ sau nửa thế kỷ kể từ khi huyền thoại đó được lan truyền đến công chúng. Công nghệ đã cho phép chúng ta nghiên cứu vi khuẩn, cơ thể và cách chúng kết hợp với nhau. Giờ đây, các nhà khoa học có thể "nhìn thấy" những điều không hề rõ ràng vào những năm 1930 và 1940. Nhưng y học chính thống đã sử dụng những kỳ tích đáng kinh ngạc này để tiếp tục củng cố huyền thoại rằng vi trùng là tác nhân gây bệnh và vắc-xin bằng cách nào đó có thể cứu sống con người.
Xuyên suốt cuốn sách này, tôi đã chỉ ra cách thức và lý do tại sao vắc-xin lại hết lần này đến lần khác gây ra chính những căn bệnh mà chúng được cho là có tác dụng phòng ngừa. Rồi còn có những bệnh tật và rối loạn phát sinh do "tác dụng phụ" của việc tiêm chủng.
Có thể nói tác dụng phụ được ghi nhận rõ ràng nhất trong số những 'tác dụng phụ' này là chứng tự kỷ, một chứng rối loạn nghiêm trọng ở trẻ em có liên quan chặt chẽ đến hai loại hóa chất - thimerosal và nhôm - từng được sử dụng thường xuyên trong vắc-xin.
Trẻ tự kỷ thường thu mình và không thể giao tiếp với người khác. Trẻ cũng thiếu khả năng trải nghiệm phạm vi và chiều sâu cảm xúc bình thường của con người. Rối loạn ngôn ngữ cũng thường gặp, góp phần vào việc thiếu kỹ năng giao tiếp. Trong những trường hợp nghiêm trọng, trẻ tự kỷ có những hành động lặp đi lặp lại và có những mối bận tâm kỳ lạ.
Tự kỷ là một rối loạn nghiêm trọng và người mắc chứng tự kỷ thường cần được giám sát suốt đời. Tự kỷ đôi khi được coi là một thuật ngữ chung cho một loạt các rối loạn có triệu chứng tương tự và được gọi là Rối loạn phổ tự kỷ - Autism Spectrum Disorders (ASD).
ASD là một nhóm các rối loạn phát triển thần kinh, có nghĩa là sự phát triển hành vi ở trẻ sơ sinh và trẻ em mắc chứng tự kỷ không đạt được các mốc phát triển thông thường do những bất thường trong hoạt động của não bộ và hệ thần kinh. Mặc dù một số nhà khoa học cho rằng tự kỷ có liên quan đến di truyền, nguyên nhân của rối loạn này phần lớn vẫn "không cụ thể". Điều này có nghĩa là bệnh không thể liên quan nhân quả với bất kỳ yếu tố cụ thể nào.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về sinh lý bệnh của chứng tự kỷ. Lĩnh vực này tập trung vào những bất thường trong não bộ và hệ thần kinh ở những vùng kiểm soát chức năng ngôn ngữ, lời nói, cảm xúc, biểu đạt và các "chức năng cao hơn" khác. Chính những chức năng và kỹ năng này tạo nên "những cá nhân hoàn chỉnh, trọn vẹn" và chính những kỹ năng này thường bị ảnh hưởng bởi ASD.
Nếu yếu tố di truyền chỉ quyết định một nửa câu chuyện, thì hoàn cảnh môi trường quyết định nửa còn lại. Trong số các yếu tố môi trường này, vắc-xin đóng một vai trò quan trọng.
Nhiều nhà nghiên cứu, được hỗ trợ bởi hàng trăm nghiên cứu, tin rằng hóa chất độc hại có liên quan chặt chẽ đến chứng tự kỷ. Những yếu tố này bao gồm ô nhiễm trong nước, gần các bãi rác thải nguy hại và thậm chí cả thực phẩm chúng ta ăn.
Một lượng lớn nghiên cứu đã tập trung vào các hóa chất như tetrachloroethylene, trichloroethylene và trihalomethanes trong nước uống, và các kim loại như thủy ngân, cadmium và niken trong khí quyển ở những nơi có tỷ lệ tự kỷ đặc biệt cao. Chỉ cần xem xét kỹ lưỡng các hóa chất này, ta thấy hóa chất thường gặp nhất là thủy ngân, một kim loại nặng được biết là gây tổn thương thần kinh và thận.
Về vắc-xin, hiện đang có một cuộc tranh luận lớn về vai trò của chất bảo quản 'thimerosal' được sử dụng trong vắc-xin. Thimerosal được sử dụng như một chất bảo quản để ngăn ngừa vi khuẩn và nấm làm nhiễm bẩn và lây nhiễm liều vắc-xin khi bảo quản trong lọ trong thời gian dài. Thimerosal chứa gần 50% thủy ngân, một chất độc thần kinh gây tổn thương thần kinh cho hệ thần kinh trung ương.
Cụ thể hơn, các loại vắc-xin bị kiểm tra về thimerosal thường là vắc-xin Viêm gan B, Hib, DTaP và MMR, tất cả đều chứa thimerosal. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng tất cả các loại vắc-xin này đều có mối liên hệ chặt chẽ với chứng tự kỷ và các rối loạn liên quan đến miễn dịch.
Trước khi thảo luận về thimerosal và vai trò của nó đối với chứng tự kỷ, có một điều khác chúng ta cần xem xét. Cộng đồng khoa học - và thậm chí cả cộng đồng pháp lý - cho biết họ không tìm thấy "mối liên hệ nhân quả" nào giữa chất bảo quản chứa thủy ngân này và chứng tự kỷ. Điều này có thể có nghĩa là một trong hai điều, hoặc cả hai - một mối quan hệ nhân quả tồn tại nhưng vẫn chưa được xác định (các nghiên cứu về thuốc thường thiên vị các công ty dược phẩm lớn và hầu như luôn ủng hộ các chính sách của chính phủ) hoặc, trong trường hợp tốt nhất, là tồn tại một mối tương quan mạnh mẽ.
Trong trường hợp sau, rất nhiều nghiên cứu về thimerosal cho thấy thủy ngân, nhôm và một số chất gây ô nhiễm như tế bào thai nhi người có thể gây ra chứng tự kỷ ở trẻ em vốn đã có khuynh hướng mắc chứng này. Nói cách khác, thủy ngân trong các loại vắc-xin này tác động lên cấu trúc thần kinh vốn có sẵn, vốn dễ dẫn đến chứng tự kỷ và các rối loạn liên quan đến tự kỷ, gây ra các triệu chứng toàn diện. Điều này có nghĩa là nếu một đứa trẻ có khuynh hướng mắc chứng tự kỷ mà không được tiêm vắc-xin có chứa thimerosal, thì trẻ đó sẽ sống một cuộc đời bình thường, khỏe mạnh, không gặp phải hoặc biểu hiện các triệu chứng của chứng tự kỷ.
8.1 Giới thiệu Thimerosal
Hãy quay lại cuộc thảo luận về thimerosal. Các nhà sản xuất dược phẩm rất ưa chuộng chất bảo quản vắc-xin này, một hóa chất tổng hợp, xét về nhiều mặt, độc hại hơn nhiều so với chất tiền thân của nó, methylmercury hydroxide.
Nó tan rất nhanh trong nước, dễ dàng hòa tan trên màng tế bào và có khả năng vô hiệu hóa các quá trình thiết yếu của tế bào. Hãy lưu ý điều này khi đọc chương này, phần lớn tập trung vào tác dụng gây độc thần kinh của chất bảo quản cực mạnh này.
Nói như vậy, bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao số ca tự kỷ ở Hoa Kỳ lại tăng vọt đáng kể sau năm 1988 không? Liệu điều này có liên quan đến sự gia tăng đột ngột việc tiếp xúc với thimerosal thông qua việc tiêm chủng bắt buộc theo Lịch tiêm chủng cho trẻ em không?
Cho đến năm 1988, vắc-xin DTaP là loại vắc-xin duy nhất có chứa thimerosal được tiêm cho trẻ sơ sinh tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trong năm đó, Lịch tiêm chủng cho trẻ em đã được mở rộng để bao gồm các loại vắc-xin khác có chứa chất bảo quản độc hại này. Sau đó, vào năm 1991, lịch tiêm chủng được sửa đổi và mở rộng thêm một lần nữa, bao gồm nhiều loại vắc-xin chứa thủy ngân hơn. Tệ hơn nữa, lịch tiêm chủng sửa đổi này thậm chí còn khiến trẻ sơ sinh nhỏ tuổi hơn tiếp xúc với vắc-xin có chứa thimerosal.
Những loại vắc-xin này là gì? Vào năm 1988, theo khuyến nghị của CDC, tất cả trẻ sơ sinh sinh ra từ các bà mẹ bị viêm gan B đều được tiêm Globulin miễn dịch viêm gan B và vắc-xin viêm gan B trong vòng 12 giờ khi sinh. Cả hai mũi tiêm này đều chứa thimerosal, nâng lượng thủy ngân được tiêm vào mỗi trẻ sơ sinh lên 37,5 microgam (mcg).
Mũi tiêm thứ ba chứa thủy ngân là vắc-xin Hib (phòng vi khuẩn Hemophilus influenza týp B), được tiêm khi trẻ được 18 tháng tuổi. Mũi tiêm này chứa thêm 25 mcg thủy ngân, nâng tổng lượng thủy ngân lên 62,5 mcg.
Một số trẻ sơ sinh đã tiếp xúc với thimerosal từ một nguồn bổ sung. Đây là những trẻ sinh ra từ những bà mẹ có Rh âm tính và đã được tiêm Rho-Gam trong thai kỳ. Rho-Gam là một loại globulin miễn dịch Rh được tiêm cho những phụ nữ này để ngăn ngừa bệnh tan máu, một tình trạng mà hệ miễn dịch của người mẹ tấn công các tế bào máu của thai nhi. Đây là một phát triển tương đối mới vì Rho-Gam chưa bao giờ được tiêm cho phụ nữ mang thai trước năm 1990.
Nghiên cứu cho thấy não của thai nhi dễ bị tổn thương bởi độc tố thần kinh hơn não của người lớn. Độc tố thần kinh là những hóa chất độc hại gây tổn thương thần kinh và chết tế bào, và thủy ngân đứng đầu danh sách các hóa chất gây tổn thương não và hệ thần kinh. Ngoài ra, tuổi càng nhỏ, nguy cơ tổn thương thần kinh càng cao.
Loại tổn thương này phá hủy các tế bào ở một số vùng não có liên quan đến các triệu chứng điển hình của rối loạn phát triển thần kinh như trong các rối loạn phổ tự kỷ.
Năm 1991 là một năm mang tính bước ngoặt - và có khả năng gây tử vong - trong việc tiêm chủng cho trẻ em. Đến lúc đó, ảnh hưởng của các nhà sản xuất vắc-xin và sự kìm kẹp của họ đối với chính sách y tế quốc gia đã tăng lên đáng kể, cùng với đó là động lực của họ đối với các nhà hoạch định chính sách, những người đã thực hiện và áp đặt chương trình nghị sự nặng về vắc-xin ở Hoa Kỳ.
Do đó, không có gì ngạc nhiên khi vào năm 1991, Lịch tiêm chủng cho trẻ em liên quan đến vắc-xin Viêm gan B và Hib đã có những thay đổi đáng kể. Giờ đây, trẻ sơ sinh không chỉ được tiêm nhiều vắc-xin hơn mà còn được tiêm các liều này ở độ tuổi nhỏ hơn. Do đó, đột nhiên, từ một mũi tiêm duy nhất được tiêm trong vòng 12 giờ sau sinh, trẻ sơ sinh phải được tiêm thêm hai mũi nữa: mũi thứ hai khi trẻ được hai tháng tuổi và mũi thứ ba từ sáu đến 18 tháng tuổi.
Cái gọi là lý do cho việc "tăng cường" tiêm chủng viêm gan B là vì những người lớn có nguy cơ mắc viêm gan B (người tiêm chích ma túy, người thường xuyên truyền máu và những người quan hệ tình dục không an toàn) khó có thể tự nguyện tiêm vắc-xin phòng ngừa vi-rút viêm gan B. Do đó, tiêm chủng cho tất cả trẻ sơ sinh là giải pháp tốt nhất!
Lịch tiêm chủng vắc-xin Hib cũng có sự thay đổi. Thay vì tiêm một mũi lúc 18 tháng tuổi, trẻ sơ sinh giờ đây sẽ được tiêm thêm ba mũi nữa.
ba mũi tiêm khi trẻ được hai đến sáu tháng tuổi và mũi thứ tư khi trẻ được 15 tháng tuổi. Mỗi lọ chứa 25 mcg thủy ngân!
Trong những năm này - 1988 và 1991 - tỷ lệ mắc chứng tự kỷ cũng như nhiều loại bệnh khác như nhiều loại rối loạn tự miễn, phản ứng dị ứng và bệnh tiểu đường ở trẻ em bắt đầu tăng vọt.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà hàng loạt phụ huynh đột nhiên lên tiếng phàn nàn về việc vắc-xin DTaP và MMR (sởi, quai bị và rubella) có liên quan đến chứng tự kỷ ở con họ. (Chúng ta sẽ thảo luận về mối liên hệ giữa MMR và chứng tự kỷ ở phần sau của chương này)
Đối với một số bậc cha mẹ, nghiên cứu sau đây sẽ chỉ hữu ích khi nhìn lại nhưng có hàng triệu bậc cha mẹ có thể thay đổi suy nghĩ sau khi đọc về một nghiên cứu do các nhà nghiên cứu từ Đại học Pitts-burgh và Trung tâm Thoughtful House dành cho trẻ em ở Austin, Texas thực hiện. Các nhà nghiên cứu này đã tiêm cho khỉ đuôi dài Rhesus sơ sinh một loạt vắc-xin mô phỏng Lịch tiêm chủng cho trẻ em được khuyến nghị vào những năm 1990. Đây là một nghiên cứu theo chiều dọc sử dụng hình ảnh công nghệ cao và các xét nghiệm khác để kiểm tra và so sánh tỉ mỉ não của những con khỉ thử nghiệm này với não của những con khỉ không được tiêm vắc-xin. Những con khỉ đã được tiêm vắc-xin cho thấy những thay đổi trong não thường liên quan đến chứng tự kỷ trong khi não của những con khỉ không được tiêm vắc-xin vẫn không thay đổi về các thông số này.
Những thay đổi này là gì? Những con khỉ được tiêm vắc-xin cho thấy thể tích não tăng lên, một yếu tố có liên quan chặt chẽ đến chứng tự kỷ. Chúng cũng trải qua những thay đổi ở hạch hạnh nhân, vùng não có liên quan mật thiết đến các rối loạn tự kỷ.
Đây là điều củng cố thêm mối liên hệ giữa lịch tiêm vắc-xin và các nhà sản xuất vắc-xin - các chương trình tiêm chủng luôn nhận được tài trợ từ các nhà sản xuất vắc-xin như 'Every Child By Two', một chương trình quốc gia do một cơ quan tình nguyện thành lập, được Merck, Lederle và Connaught tài trợ một phần.
Việc tài trợ cho các chương trình và dự án y tế công cộng là một con đường đã được thử nghiệm và chứng minh mà các công ty dược phẩm lớn luôn áp dụng để khiến công chúng nhẹ dạ cả tin tiêu thụ sản phẩm của họ theo cách có vẻ không ép buộc.
>>Tiếp: 8.2 Mối liên hệ giữa vắc-xin và bệnh tự kỷ
7.7 DPT: Đột tử
>>Trước: 7.6 Viêm gan B: Sát thủ giết chết trẻ sơ sinh
Nỗi sợ hãi là một trong những vũ khí hiệu quả nhất được các nhà sản xuất vắc-xin sử dụng để khiến các bậc cha mẹ chấp nhận "mối nguy hiểm" của bệnh tật, đồng thời đưa ra lời khuyên "thuốc tiên" cho con cái họ. Các nhà sản xuất vắc-xin chẳng quan tâm đến việc những chiến thuật "thuyết phục" của họ lại gây ra cái chết của hàng chục trẻ sơ sinh mỗi năm.
Tôi đang đề cập đến vắc-xin DPT (bạch hầu, ho gà, uốn ván), loại vắc-xin này đã nhiều lần được cho là có liên quan đến các trường hợp Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh hay SIDS. (Xem Chương 3: Có một âm mưu không? - CUỘC CHIẾN VỚI TRẺ SƠ SINH).
Nghiên cứu xác nhận rằng vắc-xin ho gà chỉ có hiệu quả ở 36% trẻ em. Báo cáo của Giáo sư Gordon Stewart, được công bố năm 1994 trên tạp chí World Medicine, đã chứng minh rằng rủi ro của vắc-xin ho gà lớn hơn lợi ích mà nó mang lại.
DPT, vắc-xin ho gà được sử dụng ở Mỹ cho đến năm 1992, có chứa chất gây ung thư formaldehyde và các kim loại cực độc như nhôm và thủy ngân. Cả vắc-xin này và phiên bản "cải tiến" của nó, DTaP, đều chưa bao giờ được kiểm tra về độ an toàn, mà chỉ được kiểm tra về "hiệu quả".
Vắc-xin mới đã được chứng minh là không tốt hơn vắc-xin cũ. Cả hai phiên bản đều gây tử vong, cận tử, co giật, chậm phát triển và ít nhất là phải nhập viện. Vắc-xin DTaP được tiêm cho trẻ sơ sinh từ sáu tuần tuổi, mặc dù vắc-xin chưa bao giờ được thử nghiệm trên nhóm tuổi này.
Một lời nhắc nhở khác về mối nguy hiểm của vắc-xin DPT xuất hiện vào tháng 7 năm 2010, trong đợt bùng phát bệnh ho gà ở California, nơi 10 trẻ sơ sinh tử vong vì căn bệnh này và gần 6.000 trường hợp được xác nhận cho đến nay (ngày 1 tháng 11 năm 2010). Trên thực tế, các cơ quan y tế công cộng đã thừa nhận rằng bệnh ho gà đã tái phát trong những năm gần đây, với sự gia tăng đột ngột của bệnh này thỉnh thoảng. Điều này bất chấp (hoặc chính là do?) tỷ lệ tiêm chủng DPT rất cao.
Sau khi dịch bệnh bùng phát, CDC thừa nhận rằng mầm bệnh có thể đã thích nghi với vắc-xin, một thực tế được củng cố bởi quan sát rằng Bordetella parapertussis, một họ hàng của vi khuẩn Bordetella pertussis gây bệnh ho gà, cũng có thể gây bệnh ở những người suy giảm miễn dịch, đặc biệt là trẻ nhỏ. Một số nhà nghiên cứu nghi ngờ rằng vắc-xin DPT có thể đã làm suy yếu hệ miễn dịch (vắc-xin chứa một lượng lớn độc tố hoạt tính sinh học) đến mức khiến nạn nhân dễ bị vi khuẩn Bordetella parapertussis tấn công.
Tất cả các loại vắc-xin đều gây tổn hại đến hệ miễn dịch, khiến trẻ sơ sinh đặc biệt dễ bị nhiễm khuẩn. Vì không có thử nghiệm an toàn thực sự nào được thực hiện trên vắc-xin, nên các nhà sản xuất vắc-xin và bác sĩ không thể bị đổ lỗi trực tiếp cho việc gây ra các đợt bùng phát dịch bệnh như vậy. Thực tế, điều ngược lại hoàn toàn có thể xảy ra: các quan chức y tế đổ lỗi cho việc thiếu tiêm chủng ở trẻ sơ sinh và người lớn là nguyên nhân gây ra dịch bệnh, cố gắng giáo dục và thông tin cho mọi người về tầm quan trọng của việc tiêm chủng.
Theo Tiến sĩ Jennifer Ashton, phóng viên y tế của CBS News, vì không thể tiêm vắc-xin cho trẻ sơ sinh dưới hai tháng tuổi nên việc người lớn sống và làm việc với trẻ em tiêm vắc-xin hoặc tiêm lại vắc-xin là vô cùng cần thiết.
Tuy nhiên, không có bằng chứng nào cho thấy vắc-xin ho gà có thể ngăn ngừa bệnh ho gà. Có người chỉ đang bịa đặt. Khả năng người lớn đã tiêm vắc-xin cũng lây bệnh cho con cái vốn đã suy giảm miễn dịch là rất cao.
Theo bằng chứng thống kê, nhiều dịch bệnh đã bùng phát ngay sau khi các chương trình tiêm chủng được triển khai cho người dân. Tại sao đợt bùng phát mới nhất này lại là ngoại lệ cho quy tắc này?
Bệnh khởi phát giống như cảm lạnh thông thường ở người lớn và trẻ em, với triệu chứng ho nhẹ và sổ mũi. Thông thường, phải mất một hoặc hai tuần mới xuất hiện cơn ho dữ dội, nghe như tiếng sủa khàn khàn, mặc dù một số trường hợp ho gà không gây ra triệu chứng ho đặc trưng.
Lạm dụng vắc-xin là một hành động nguy hiểm. Cũng giống như việc lạm dụng kháng sinh đã dẫn đến sự xuất hiện của các vi khuẩn kháng kháng sinh nguy hiểm (siêu vi khuẩn không thể bị tiêu diệt), việc liên tục tiêm vắc-xin chứa mầm bệnh cho dân số có thể khiến các tác nhân gây bệnh thích nghi với vắc-xin và khiến chúng trở nên vô dụng (theo chính lời thừa nhận của CDC).
Quay lại chủ đề thảo luận của chúng ta về SIDS, trong số 17 vấn đề sức khỏe tiềm ẩn do vắc-xin ho gà gây ra, SIDS đứng đầu danh sách. Theo ước tính của Đại học California tại Los Angeles, 1.000 trẻ sơ sinh ở Mỹ tử vong mỗi năm do hậu quả trực tiếp của việc tiêm vắc-xin. Trẻ em tử vong với tốc độ nhanh gấp tám lần bình thường sau khi tiêm vắc-xin DPT. James R. Shannon thuộc Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ đã hiểu rõ điều này khi ông nói: "Không có loại vắc-xin nào có thể được chứng minh là an toàn trước khi tiêm cho trẻ em."
Các cơ quan y tế tuyên bố rằng 10 ca tử vong xảy ra trong đợt bùng phát gần đây ở California là do những trẻ sơ sinh này không được tiêm chủng. Điều này rất khó xảy ra vì vắc-xin chỉ có hiệu quả ở 36% trẻ em; do đó, dù sao thì cũng đã có 6 hoặc 7 trẻ tử vong. Bên cạnh đó, có thể có những tình trạng sức khỏe nghiêm trọng khác có thể góp phần gây tử vong, điều này thường xảy ra khi một bệnh nhiễm trùng thông thường không gây tử vong như ho gà lại gây tử vong.
Mặc dù đó là một bi kịch lớn đối với bất kỳ bậc cha mẹ nào khi chứng kiến con mình chết chỉ vài tuần sau khi chào đời, nhưng nó thậm chí còn không thể so sánh với bi kịch của 1.000 trẻ em chết không đáng có mỗi năm do hậu quả của việc bị bỏ rơi.
Đã tiêm vắc-xin phòng ho gà. Thật khó hiểu làm sao bất kỳ bác sĩ, quan chức y tế hay giám đốc điều hành công ty dược phẩm nào lại có thể đứng lên với lương tâm trong sáng và tuyên bố rằng việc để 1.000 trẻ em chết để cứu 10 trẻ em khác là hoàn toàn bình thường. Hay họ chỉ đơn giản là không biết gì về những nghiên cứu thực sự quan trọng đã được công bố mà lại mù quáng tin vào những lời đồn đại và khoa học giả mạo? Hay họ chỉ tham lam và không quan tâm?
Ngoài ra, bệnh bạch hầu vẫn được chống lại bằng các chương trình tiêm chủng độc hại mặc dù căn bệnh này gần như đã biến mất hoàn toàn khỏi hành tinh.
Khi bệnh bạch hầu bùng phát ở Chicago năm 1969, 11 trong số 16 nạn nhân là những người đã được tiêm phòng bạch hầu. Trong một báo cáo khác, 14 trong số 23 nạn nhân đã hoàn toàn "miễn dịch". Điều này cho thấy việc tiêm phòng không tạo ra sự khác biệt nào trong việc bảo vệ chống lại bệnh bạch hầu; ngược lại, nó thậm chí còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Những nét nhỏ
Tiến sĩ Andrew Moulden, một chuyên gia về đánh giá thần kinh hành vi liên quan đến các rối loạn não bộ và hành vi, đã đưa ra một số nhận xét thú vị về vắc-xin sau nhiều năm nghiên cứu chuyên sâu. Ông cho biết vắc-xin, trên diện rộng, gây ra tình trạng thiếu máu cục bộ - tình trạng hạn chế hoặc suy giảm lưu lượng máu trong các đơn vị vi tuần hoàn. Đây là một cấp độ rất nhỏ nên rất khó quan sát.
Theo Tiến sĩ Moulden, vắc-xin gây ra tình trạng thiếu máu cục bộ, từ đó dẫn đến thiếu oxy hoặc suy giảm khả năng cung cấp oxy đến các mô. Điều này lại dẫn đến chết tế bào hoặc đột quỵ nhỏ. Khi điều này xảy ra ở não và hệ thần kinh, nó sẽ dẫn đến các rối loạn phát triển thần kinh như hội chứng mệt mỏi mãn tính (CFS) và các khuyết tật học tập. Nó cũng có thể xảy ra ở các tế bào và mô khác trong cơ thể. Đây là cách vắc-xin gây ra nhiều triệu chứng khác nhau, tùy thuộc vào vùng bị tổn thương.
Tiến sĩ Moulden cho biết khi tiêm vắc-xin vào máu, hai điều sẽ xảy ra. Thứ nhất là quá trình kích thích miễn dịch không đặc hiệu hay còn gọi là quá mẫn cảm miễn dịch. Thứ hai là sự mất ổn định tĩnh điện của dòng máu, làm suy yếu động lực học chất lỏng và sự vận chuyển oxy/dinh dưỡng trong toàn bộ hệ thống mạch máu của cơ thể. Ông chỉ ra rằng lưu lượng máu khỏe mạnh là nền tảng của sự sống, quá trình chữa lành, chức năng tế bào, sức khỏe và thể trạng.
Tiến sĩ Moulden giải thích rằng một trong những quá trình diễn ra là sự thay đổi đột ngột, cấp tính, rồi mãn tính, của dòng máu từ dạng "lỏng" sang dạng "gel". Ví dụ, nhôm có trong vắc-xin như một tá dược gây ra hiện tượng "bùn" dòng máu. Điều này xảy ra khi nhôm gây ra các hạt trong máu kết tụ lại, khiến máu có đặc tính giống như bùn.
Các mao mạch không thể hấp thụ oxy và chất dinh dưỡng từ máu "đặc", dẫn đến tổn thương tế bào và mô. Nếu điều này có vẻ "nhỏ", thì nó không phải như vậy khi diễn ra ở cấp độ vi mô, Tiến sĩ Moulden giải thích. Ông cho biết trẻ sơ sinh tử vong đột ngột và "không rõ nguyên nhân" sau khi tiêm vắc-xin sẽ bị suy giảm lưu lượng máu đến các mạch máu tận cùng ở thân não, nơi kiểm soát phản ứng hô hấp giống như phản xạ.
Do đó, tất cả những người được tiêm vắc-xin đều bị một loạt các cơn đột quỵ do thiếu máu cục bộ trong suốt cuộc đời. Khi cơ thể đạt đến "điểm giới hạn", nó sẽ dẫn đến các rối loạn phát triển thần kinh và các rối loạn khác, Tiến sĩ Moulden giải thích.
Khoa học y tế còn phải đi một chặng đường dài nữa mới có thể hiểu đầy đủ về các tác dụng phụ của vắc-xin. Có thể nói rằng một hệ thống miễn dịch khỏe mạnh và một lối sống lành mạnh tổng thể là biện pháp bảo vệ tốt nhất chống lại bệnh tật.
>>Tiếp: 8. Chương 6 - Tự kỷ ~ Cuộc tấn công của thủy ngân
7.6 Viêm gan B: Sát thủ giết chết trẻ sơ sinh
>>Trước: 7.5 Trò lừa bịp về HPV
Tiêm vắc-xin viêm gan B là một trong những loại vắc-xin đầu tiên được tiêm cho trẻ sơ sinh. Tuy nhiên, vắc-xin này không mang lại lợi ích gì cho trẻ. Nguyên nhân là do môi trường lây truyền của vi-rút viêm gan B là máu và các chế phẩm từ máu, kim tiêm bị nhiễm bệnh, tiêm chích ma túy và quan hệ tình dục không an toàn.
Vì vậy, trừ khi trẻ là người nghiện hoặc tham gia vào các hoạt động tình dục nguy hiểm, thì việc tiêm vắc-xin viêm gan B cho trẻ sơ sinh hoàn toàn không mang lại lợi ích gì (kể cả khi xét đến những lợi ích đáng ngờ của việc tiêm chủng).
Hơn nữa, ngay cả các nhà sản xuất vắc-xin cũng thừa nhận rằng hiệu quả được cho là của vắc-xin viêm gan B sẽ mất đi trong vòng bảy đến mười năm, và thậm chí nhanh hơn ở trẻ em. Do đó, ngay cả với những người thừa nhận rằng tiêm chủng có lợi, thì có lý do gì để bắt buộc tiêm chủng cho một bộ phận dân số hoàn toàn không nhận được lợi ích gì từ việc tiêm chủng?
Đây là lý do tại sao. Vắc-xin viêm gan B được đưa vào sử dụng thương mại vào năm 1986. Về cơ bản, đây là một loại vắc-xin nhằm mục đích bảo vệ chống lại căn bệnh phổ biến ở một số nhóm dân số có nguy cơ cao, vì vi-rút viêm gan B chỉ lây truyền qua đường máu, các chế phẩm máu và dịch cơ thể. Những nhóm nguy cơ cao này bao gồm người sử dụng ma túy, người đồng tính và những người quan hệ tình dục không an toàn.
Vấn đề là những nhóm nguy cơ cao này, những người có khả năng nhiễm virus cao nhất, cũng là những người ít có khả năng được tiêm chủng nhất. Vì vậy, Merck, đơn vị sản xuất và tiếp thị vắc-xin tại Hoa Kỳ, cần phải nhanh chóng tìm kiếm thị trường mới.
Năm năm sau khi vắc-xin viêm gan B ra mắt thị trường, vào năm 1991, CDC đã có một bước ngoặt bất ngờ, mở ra một thị trường hoàn toàn mới cho nhà sản xuất vắc-xin này. Và cơ quan này đã thực hiện một số chiêu trò đáng kinh ngạc.
Không có gì ngạc nhiên khi trước đó, chính cơ quan này đã tự hào tuyên bố rằng Hoa Kỳ là một trong những quốc gia có tỷ lệ mắc bệnh viêm gan B thấp nhất (0,1-0,5 phần trăm dân số) - chỉ 18.000 trường hợp trong tổng số hơn 240 triệu người.
Vào cuối năm 1991, Ủy ban Cố vấn về Thực hành Tiêm chủng (ACIP) của CDC, chắc chắn là theo yêu cầu của Merck, đã đột nhiên khuyến nghị rằng tất cả trẻ sơ sinh nên được tiêm liều vắc-xin đầu tiên trong số ba liều trong vòng tối đa 12 giờ sau khi sinh!
Tiếp theo, CDC đã đưa ra những con số khó tin để biện minh cho khuyến nghị này, ước tính Hoa Kỳ có khoảng 1,25 triệu người mắc bệnh viêm gan B mãn tính. Cơ quan này cho biết khoảng 4.000 đến 5.000 người trong số này tử vong vì bệnh gan mãn tính hàng năm. Để chắc chắn hơn, CDC còn cho biết thêm rằng trong thập kỷ trước khi khuyến nghị được đưa ra, mỗi năm có từ 200.000 đến 300.000 ca viêm gan B mới được phát hiện!
Do đó, bằng cách thuyết phục các quan chức chính phủ và nhà hoạch định chính sách bằng các ưu đãi tài chính, Merck đã có thể thuyết phục chính phủ các nước phát triển bắt buộc tiêm vắc-xin viêm gan B khi trẻ mới sinh.
Với mức giá 50 đô la cho ba liều vắc-xin, công ty dược phẩm này hiện đang thu về ít nhất 1 tỷ đô la doanh thu chỉ từ loại vắc-xin này mỗi năm.
Trong quá trình này, nó đã có thể tiêm vắc-xin cho hàng triệu trẻ sơ sinh mà không nhận được lợi ích gì từ hỗn hợp độc hại này, và hệ thống miễn dịch của họ thực tế sẽ bị tổn hại vì điều đó.
Thủ đoạn gian dối của chính phủ mạnh đến mức khiến công chúng lờ đi một loạt số liệu khác, vốn có thể phơi bày sự thật về mức độ "khẩn cấp" của nhu cầu vắc-xin. Thực tế là khoảng một nửa số người mắc bệnh không biểu hiện triệu chứng, đồng thời vẫn có khả năng miễn dịch vĩnh viễn. 30% số người nhiễm virus khác có các triệu chứng giống cúm, trong khi chỉ 20% còn lại thực sự biểu hiện triệu chứng. Trong số này, 95% đã hồi phục hoàn toàn.
Điều này có nghĩa là chỉ 5% số người nhiễm virus viêm gan B trở thành người mang mầm bệnh mãn tính. Giờ thì hãy xem xét điều này. Trong nhóm này, chỉ một phần tư, tức 25%, mắc bệnh gan mãn tính hoặc ung thư. Đó là một nhóm thiểu số về mặt thống kê - chiếm 1,25% số người tiếp xúc với virus - có nguy cơ nghiêm trọng. Điều này khiến virus viêm gan B trở thành mối đe dọa đối với sức khỏe cộng đồng như thế nào? Điều này biện minh cho việc tiêm chủng hàng loạt như thế nào? Tại sao không cho phép mọi người tự nguyện lựa chọn tiêm vắc-xin?
Những con số không nói dối
Nhưng chính xác thì tại sao vắc-xin viêm gan B lại nguy hiểm đến vậy? Nơi cuối cùng bạn có thể tìm thấy câu trả lời cho câu hỏi khó hiểu này là hệ thống VAERS của CDC và FDA. Theo hồ sơ công khai của VAERS, chỉ có 19 trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh liên quan đến vắc-xin viêm gan B được báo cáo trong thập kỷ cuối của thế kỷ 20.
Tuy nhiên, theo một nhà nghiên cứu độc lập, người đã thu thập dữ liệu thô của VAERS vốn không được công khai, thực tế đã có 54 báo cáo về tử vong ở trẻ sơ sinh liên quan đến vắc-xin viêm gan B chỉ tính riêng từ tháng 1 năm 1996 đến tháng 5 năm 1997. Không một báo cáo nào trong số này được VAERS công bố! Và đây chỉ là những trường hợp được các bác sĩ, y tá, phụ huynh, v.v. báo cáo cho VAERS.
Nhà nghiên cứu cũng biết rằng VAERS đã ghi nhận 17.000 báo cáo về phản ứng có hại đối với vắc-xin trong thời gian này nhưng không có báo cáo nào được FDA và CDC công bố.
Khi vắc-xin viêm gan B được giới thiệu, nó được quảng cáo là phương pháp an toàn nhất để phòng ngừa một loại vi-rút có thể gây tổn thương gan không thể phục hồi, dẫn đến ung thư và tử vong. Việc đưa vắc-xin này vào chương trình tiêm chủng bắt buộc và các chiến dịch tiêm chủng hàng loạt ở Hoa Kỳ vào cuối những năm 1980 và 1990 đã gây ra nhiều tranh cãi, cũng bởi vì nghi ngờ rằng vắc-xin này đã được các cơ quan y tế công cộng và chính phủ Hoa Kỳ sử dụng như một phương tiện để đưa vi-rút HIV vào một số nhóm dân số Mỹ. (Xem Chương 3: Có Âm mưu không?).
Khi các nhà nghiên cứu đào sâu hơn, ngày càng nhiều tài liệu mật của chính phủ và quân đội bị tiết lộ, khiến công chúng vô cùng kinh hoàng. Tuy nhiên, chính phủ Hoa Kỳ và các nhà hoạch định chính sách đã thành công trong việc bắt buộc tiêm vắc-xin này cho trẻ sơ sinh trên toàn quốc.
Tuy nhiên, chính phủ Pháp buộc phải phản hồi những lo ngại của công chúng, đặc biệt là sau khi hàng ngàn công dân Pháp kiện chính phủ vì che giấu những rủi ro liên quan đến loại vắc-xin này. Sau khi vắc-xin được giới thiệu tại Pháp, hàng trăm người đã báo cáo các triệu chứng tự miễn dịch, thần kinh và các bệnh lý mất myelin khác, bao gồm cả bệnh đa xơ cứng. Do đó, chính phủ Pháp đã loại vắc-xin viêm gan B khỏi danh sách vắc-xin bắt buộc tiêm chủng cho trẻ em trong độ tuổi đi học vào tháng 10 năm 1998.
Liên kết tự miễn
Vắc-xin viêm gan B đã là chủ đề của nhiều nghiên cứu cũng như tranh luận sôi nổi do mối liên hệ giữa vắc-xin với các rối loạn tự miễn dịch "thời đại mới". Những lo ngại này xuất phát từ các báo cáo liên quan đến vắc-xin gây ra các rối loạn phát triển, rối loạn thiếu tập trung, khó khăn trong học tập, tự kỷ, bệnh não gây tổn thương não vĩnh viễn, hội chứng mệt mỏi mãn tính, đa xơ cứng, viêm khớp dạng thấp, hen suyễn và co giật.
Nghiên cứu cũng cho thấy rằng độ tuổi tiêm vắc-xin viêm gan B càng sớm thì khả năng mắc bệnh tiểu đường phụ thuộc insulin, đây cũng là một rối loạn tự miễn dịch, càng cao.
Mối tương quan đáng lo ngại này có thể được giải thích bởi thực tế là vắc-xin, bao gồm cả vắc-xin viêm gan B ba liều, có thể làm quá tải hệ miễn dịch đang phát triển của trẻ sơ sinh. Trên thực tế, hệ miễn dịch của trẻ sơ sinh không phản ứng với các tác nhân gây bệnh và kháng nguyên giống như hệ miễn dịch của người lớn.
Vậy tại sao không phải ai tiêm vắc-xin viêm gan B cũng bị bệnh? Theo các nhà nghiên cứu, vắc-xin này, sử dụng vật liệu di truyền tái tổ hợp, mô phỏng protein của người theo cách gây nhầm lẫn cho hệ miễn dịch. Hậu quả của sự nhầm lẫn này là hệ miễn dịch nhầm lẫn các tế bào của cơ thể với các tác nhân gây bệnh lạ và bắt đầu tấn công các tế bào và mô của chính nó. Đây chính là cơ sở của bệnh tự miễn.
Có một tỷ lệ đáng kể về mặt thống kê trong dân số dễ mắc phải "sự nhầm lẫn tế bào" này, những cá nhân có xu hướng di truyền dễ bị nhầm lẫn khi vắc-xin xâm nhập vào máu, gặp phải các đợt bùng phát hoặc các triệu chứng thần kinh và các triệu chứng khác đặc trưng của rối loạn tự miễn dịch.
Tuy nhiên, khi tiêm vắc-xin, điều quan trọng là phải nhận thức được những rủi ro liên quan. Những rủi ro này khác nhau tùy theo từng loại vắc-xin và từng cá nhân. Làm sao bạn biết mình có nguy cơ mắc bệnh tự miễn nếu chưa từng có triệu chứng và do đó đã được xét nghiệm trước đó?
Bạn có nên xét nghiệm di truyền trước khi tiêm vắc-xin không? Tờ hướng dẫn sử dụng đi kèm vắc-xin có cung cấp đầy đủ thông tin về các hóa chất này không? Bạn có thực sự cần phải tiêm vắc-xin không?
Những lo ngại về tính an toàn của vắc-xin đã gia tăng trong những năm gần đây, do sự lan truyền thông tin trên Internet. Với quá nhiều thông tin như vậy, thật khó để che giấu sự thật. Vì vậy, nếu tờ hướng dẫn sử dụng vắc-xin mơ hồ và không đầy đủ, công chúng sẽ không còn phụ thuộc vào những dòng chữ nhỏ và bác sĩ gia đình để biết thông tin nữa.
Các bậc phụ huynh ở Mỹ ngày càng đặt câu hỏi về nhu cầu tiêm chủng cho con em mình đến 30 mũi vắc-xin trước 18 tháng tuổi. Vì vậy, để che giấu số lượng vắc-xin và giảm nhẹ tác động tiêu cực đến hệ miễn dịch của trẻ, các nhà sản xuất vắc-xin đã dùng đến một chiêu trò khác.
Họ kết hợp vắc-xin thành một mũi tiêm duy nhất hoặc hỗn hợp vắc-xin, như trường hợp của vắc-xin DPT (bạch hầu, ho gà và uốn ván), vắc-xin MMR (sởi, quai bị và rubella) và vắc-xin MMRV (sởi, quai bị, rubella và thủy đậu)!
Đây là tin đáng lo ngại cho các bậc phụ huynh đang lựa chọn tiêm vắc-xin kết hợp cho con em mình, một loại vắc-xin kết hợp cả vắc-xin MMR và vắc-xin thủy đậu. Trung tâm Nghiên cứu Vắc-xin Kaiser Permanente, sử dụng Hệ thống Dữ liệu An toàn Vắc-xin của chính phủ, phát hiện ra rằng trẻ em được tiêm vắc-xin kết hợp có nguy cơ bị sốt dẫn đến co giật cao gấp đôi so với trẻ không tiêm.
Theo nghiên cứu, được công bố trên tạp chí Nhi khoa vào tháng 7 năm 2010, nguy cơ co giật do sốt được ghi nhận là 1/1.000 trẻ tiêm vắc-xin MMR và tăng đáng kể khi trẻ mới biết đi tiêm vắc-xin MMRV. Các nhà nghiên cứu kết luận: "Tiêm vắc-xin MMRV dẫn đến thêm 1 cơn co giật do sốt cho mỗi 2.300 liều tiêm thay vì tiêm riêng vắc-xin MMR + thủy đậu.
Mối lo ngại ngày càng tăng khi các chính phủ, cơ quan y tế công cộng và các nhà hoạch định chính sách đã cho phép các công ty dược phẩm lớn nuôi dưỡng thế hệ trẻ em suy giảm miễn dịch. Điều này diễn ra trong thời đại mà mức độ ô nhiễm đang ở mức cao nhất, lối sống đang khuyến khích bệnh tật, và thực phẩm chế biến và biến đổi gen đang làm suy yếu, thậm chí thay đổi (ví dụ như trong trường hợp béo phì) quá trình trao đổi chất của con người. Thật trớ trêu khi chúng ta đang làm suy yếu, thay vì củng cố, con em mình, những người đang phải đối mặt với những nguy cơ sức khỏe chưa từng có.
Do đó, thật đáng mừng, mặc dù cũng đáng ngạc nhiên, khi thấy một Bản Thông tin do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố lại cảnh báo về nạn tham nhũng trong ngành dược phẩm. Bản Thông tin chỉ ra rằng tham nhũng diễn ra ở mọi cấp độ và mọi bước của quy trình, từ nghiên cứu và phát triển, đến phát triển thuốc hoặc vắc-xin, đến việc đảm bảo phê duyệt và cấp phép, đến quảng cáo và tiếp thị thuốc, đến việc loại thuốc nào được liệt kê trong chương trình y tế nào, đến việc quản lý thuốc của các cơ quan y tế của chính phủ.
WHO thừa nhận rằng chi tiêu y tế bị thất thoát từ 12 đến 23 tỷ đô la mỗi năm do các hành vi phi đạo đức và các loại tham nhũng khác ở các nước phát triển. Bên cạnh những bình luận về các công ty dược phẩm, điều đáng báo động là những gì công chúng phải đối mặt khi một loại thuốc hoặc vắc-xin được đưa vào chuỗi cung ứng.
Không có cách nào để biết chính xác vắc-xin thực sự chứa những gì, hậu quả mà chúng có thể gây ra, và liệu nhiều loại thuốc này có nên được lưu hành trên thị trường hay không. Những vụ bê bối về thuốc và việc thu hồi thuốc liên tục là minh chứng cho thấy rủi ro mà vắc-xin gây ra cho sức khỏe của chúng ta, hơn là những lợi ích mà chúng mang lại.
Vụ bê bối Rotarix
Nhưng làm sao giải thích được vụ bê bối này với các bậc phụ huynh của 30 triệu trẻ em trên toàn thế giới, bao gồm 1 triệu trẻ em ở Mỹ? Đây là số trẻ em được tiêm vắc-xin Rotarix, một loại vắc-xin do Glaxo-SmithKline sản xuất và được cấp phép sử dụng tại Mỹ vào năm 2008, với mục đích bảo vệ chống lại vi-rút rota, một loại vi-rút gây tiêu chảy nặng ở trẻ em. Rotarix thường được tiêm cho trẻ sơ sinh từ hai đến bốn tháng tuổi.
Theo FDA, kết quả sơ bộ từ một nghiên cứu tại Mexico liên quan đến vắc-xin Rotarix của GlaxoSmithKline cho thấy nguy cơ mắc các vấn đề đường ruột nghiêm trọng có thể gây tử vong cao hơn. Thông báo này được đăng trên tờ The Wall Street Journal ngày 22 tháng 9 năm 2010. Nghiên cứu này chứng minh rõ ràng rằng vắc-xin có thể gây ra các bệnh mà chúng được cho là có tác dụng phòng ngừa, hoặc thậm chí tệ hơn.
Một tuyên bố đăng trên trang web của FDA cho biết nghiên cứu cho thấy nguy cơ lồng ruột tăng cao trong vòng 31 ngày sau liều Rotarix đầu tiên. Lồng ruột là tình trạng xoắn hoặc tắc ruột có thể gây tử vong. Tất nhiên, FDA không có ý định thu hồi vắc-xin nguy hiểm đã bị loại khỏi thị trường, mặc dù loại vắc-xin này từng có tiền lệ gây ra nhiều rắc rối.
Được cấp phép vào năm 2008, Rotarix đã bị FDA tạm thời rút khỏi thị trường vào tháng 3 năm 2010 sau khi phát hiện vắc-xin này bị nhiễm một loại virus lợn (Porcine circovirus PCV1). Kết luận chắc chắn là tất cả 30 triệu trẻ em được tiêm vắc-xin này cũng đã nhận được virus lợn vì nguồn giống, hoặc ngân hàng tế bào gốc mà từ đó tất cả các liều vắc-xin được tạo ra sau đó, đã bị nhiễm loại virus lợn này.
Sự nhiễm bẩn này được phát hiện bởi một nhóm các nhà nghiên cứu đang nghiên cứu độ tinh khiết của vắc-xin được sản xuất từ virus sống giảm độc lực (đã được làm yếu đi). Danh sách này bao gồm các loại vắc-xin phòng rubella, bại liệt, đậu gà, sốt vàng da, sởi, MMR và rotavirus.
Những gì họ tìm thấy thật sốc:
Bệnh Circovirus PCV1 ở lợn ở Rotarix
Các mảnh DNA từ virus bệnh bạch cầu ở gia cầm trong vắc-xin sởi
Các mảnh DNA của một loại virus tương tự như retrovirus ở khỉ trong RotaTeq do Merck sản xuất
Việc tìm thấy các mảnh vật liệu di truyền động vật hoặc DNA trong vắc-xin không phải là điều bất thường. Đây là loại vật liệu có thể gây tử vong. Vật liệu virus rõ ràng là một trong số đó. Bạn còn nhớ khám phá đáng kinh ngạc về SV40 trong vắc-xin bại liệt sống chứ? (Xem Chương 2: Những sai lầm lịch sử)
Vậy, PCV1 đã xâm nhập vào lọ Retorix bằng cách nào? Ngoài các mô động vật và huyết thanh khác (khỉ và bò) được sử dụng để phát triển vắc-xin giống Rotarix, trypsin lợn, một loại enzyme trong dịch tụy lợn, cũng được sử dụng trong quá trình sản xuất. PCV1 đã xâm nhập vào vắc-xin giống khi thêm trypsin lợn vào vắc-xin. Nhưng từ khi nào mà các nhà sản xuất vắc-xin lại kiểm tra? Họ chắc chắn không có ý định tự sát về mặt tài chính. Nếu mọi loại vắc-xin họ sản xuất đều được kiểm tra tạp chất, thì vắc-xin sẽ không bao giờ được bán.
>>Tiếp: 7.7 DPT: Đột tử
7.5 Trò lừa bịp về HPV
>>Trước: 7.4 MMR: Thật kinh ngạc
Tác dụng phụ lớn nhất của vắc-xin HPV là những sai lầm mà các công ty dược phẩm lớn đang tạo ra. Trước hết, làm sao nhà sản xuất vắc-xin Merck & Co có thể tuyên bố rằng vắc-xin Gardasil của họ có khả năng bảo vệ chống lại "Virus Papilloma ở người" (HPV) khi đây là một nhóm gồm hơn 100 loại virus?
Những quan niệm sai lầm gây ra nỗi sợ hãi và sau đó là sự hoảng loạn hàng loạt trong công chúng. Nếu tính giá thành, bạn sẽ có một loại vắc-xin Gardasil trị giá 360 đô la. Nếu tính cả hàng triệu người Mỹ đã được tiêm chủng Gardasil, thì đó quả là một khoản lợi nhuận khổng lồ cho gã khổng lồ dược phẩm.
Hãy cùng tìm hiểu sự thật đằng sau vắc-xin HPV, được các cơ quan y tế công cộng quảng cáo là cứu tinh cho phụ nữ trẻ vì nó có tác dụng bảo vệ chống lại ung thư cổ tử cung.
Đây là mức độ an toàn và hiệu quả thực sự của loại vắc-xin này. Tính đến tháng 9 năm 2010, các bác sĩ trên khắp Hoa Kỳ đã ghi nhận 65 ca tử vong liên quan đến Gardasil trong các báo cáo gửi đến Hệ thống Báo cáo Biến cố Bất lợi về Vắc-xin (VAERS) của CDC. Với tình trạng báo cáo biến cố bất lợi cho CDC còn thiếu sót nghiêm trọng, đây là một con số đáng kể về mặt thống kê đối với một loại thuốc được FDA phê duyệt vào tháng 6 năm 2006.
Ngoài những hậu quả tai hại, Gardasil còn có những vấn đề khác (ngoài việc nó là vắc-xin!). Nó không tiêm phòng được tất cả các loại chủng HPV gây ung thư; hiệu quả bảo vệ của nó chỉ kéo dài vài năm (Xem Chương 3: Có phải là âm mưu không?); và giống như tất cả các loại vắc-xin khác, nó không phải là hoàn hảo tuyệt đối.
Trước khi tiếp tục, hãy cùng tìm hiểu kỹ hơn về vắc-xin và HPV. Trái với những gì tuyên truyền y tế công cộng đang dẫn dắt chúng ta, hầu hết phụ nữ đều bị nhiễm HPV vào một thời điểm nào đó trong đời. Hầu hết những phụ nữ này không biểu hiện bất kỳ triệu chứng nào và tình trạng nhiễm trùng sẽ tự thuyên giảm theo thời gian.
Có bốn loại HPV có khả năng gây hại - loại nguy cơ cao 16 và 18, liên quan đến 70% ung thư cổ tử cung; và loại nguy cơ thấp 6 và 11, liên quan đến các tổn thương hoặc mụn cóc ở cổ họng và đường sinh dục. Những loại này đôi khi được coi là tiền ung thư.
Gardasil chứa các mảnh của cả bốn loại virus, một vật liệu đã được biến đổi gen. Tuy nhiên, loại vắc-xin được quảng cáo rầm rộ này đã gây xôn xao dư luận kể từ khi được FDA chấp thuận. Lần đầu tiên nó gây chú ý là khi FDA đẩy nhanh quá trình phê duyệt. Tất cả những ồn ào này chỉ xoay quanh một căn bệnh chỉ chiếm 1% số ca tử vong do ung thư ở Mỹ!
Nhưng rủi ro rất cao - giá thành của nó và không có gì ngạc nhiên khi chính phủ dường như quan tâm nhiều hơn công chúng về việc vắc-xin HPV nên được đưa ra thị trường sớm nhất có thể. Nhưng đây mới là sự thật
Đảo chính, một sự trớ trêu cay đắng. Vào tháng 1 năm 2010, gã khổng lồ dược phẩm tuyên bố Giám đốc CDC từ năm 2002 đến 2009, Tiến sĩ Julie Gerberding, đã được bổ nhiệm làm Chủ tịch của Merck Vaccines. Cuối cùng, tất cả những nỗ lực thúc đẩy Gardasil đã hoàn toàn hợp lý!
Bất lợi có hại như thế nào?
Theo tổ chức phi lợi nhuận Judicial Watch, Gardasil có liên quan đến khoảng 9.000 'sự kiện bất lợi' trong hai năm đầu tiên sau khi đã được phê duyệt. Trong đó có 18 ca tử vong. Sau tháng 1 năm 2008, 140 trường hợp "nghiêm trọng" đã được báo cáo, trong đó có 27 trường hợp "đe dọa tính mạng", ngoài ra còn có 10 ca sảy thai tự nhiên và sáu trường hợp mắc Hội chứng Guillain-Barré (GBS).
Nghiên cứu sâu hơn cho thấy đã có 38 trường hợp GBS được FDA ghi nhận kể từ tháng 6 năm 2006, bao gồm sáu trường hợp đã đề cập ở trên. GBS là một hội chứng tự miễn, trong đó hệ miễn dịch tấn công hệ thần kinh của cơ thể (hay đúng hơn là các độc tố tích tụ ở đó), thường dẫn đến tê liệt và trong một số trường hợp là tử vong. Như đã đề cập trước đó trong cuốn sách này, GBS là một trong những bệnh tương tự như dị ứng đã gia tăng đáng kể trong thời kỳ hậu tiêm chủng.
Vẫn còn nhiều điều chưa rõ. Các tài liệu mật thu thập được từ FDA theo Đạo luật Tự do Thông tin đã tiết lộ rằng một số phụ nữ đã được tiêm vắc-xin Gardasil đột nhiên bị phồng rộp ở lưng và cánh tay, mụn cóc ở vùng sinh dục, phồng rộp âm đạo chỉ trong vòng hai ngày sau khi tiêm vắc-xin và những vết phồng rộp này sau đó lan sang các vùng khác trên cơ thể.
Phẫn nộ trước những tiết lộ này, FDA và Merck gọi những triệu chứng này là "sự trùng hợp ngẫu nhiên" và tuyên bố rằng các báo cáo của VAERS không thiết lập được mối liên hệ nhân quả giữa Gardasil và các triệu chứng. Mặt khác, người ta có thể tự hỏi tại sao các bác sĩ, y tá và bệnh nhân lại mất công nộp báo cáo cho VAERS nếu họ nghĩ rằng các triệu chứng không liên quan hoặc không đủ nghiêm trọng để báo cáo. Làm sao FDA và Merck có thể đưa ra những tuyên bố chủ quan như vậy và tuyên bố chúng là sự thật, nếu họ không có bằng chứng để chứng minh cho những tuyên bố của mình. Chẳng lẽ 18.000 "sự trùng hợp ngẫu nhiên" vẫn chưa đủ để ít nhất là đặt câu hỏi liệu có mối liên hệ nào giữa vắc-xin Gardasil và những tác dụng phụ được báo cáo này hay không?
Nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra rằng đã có một số lượng đáng kể các trường hợp mụn cóc sinh dục và các loại mụn cóc khác bùng phát ngay sau khi tiêm vắc-xin cho phụ nữ trẻ. Giống như các loại vắc-xin khác, Gardasil đã kích hoạt chính căn bệnh mà nó được thiết kế để phòng ngừa. Nhiễm trùng do vắc-xin có nhiều khả năng xảy ra và hợp lý hơn là sự xuất hiện ngẫu nhiên của những tác dụng phụ như vậy.
Nhưng đạo đức không phải là thế mạnh của cả Big Pharma, cơ quan y tế công cộng hay các nhà lập pháp. Đó là lý do tại sao Merck đã chi hàng triệu đô la để tiếp thị "thần dược" của mình theo hai cách, cả hai đều vấp phải phản ứng dữ dội từ công chúng đến mức nhà sản xuất vắc-xin này phải rút lại chiến dịch.
Thứ nhất, Merck đã bắt đầu chiến dịch quảng cáo rầm rộ từ rất lâu trước khi Gardasil được FDA chấp thuận. Họ gần như đã quảng cáo rầm rộ loại thuốc này trên truyền hình và Internet nhằm gây sốt, khiến phụ nữ trẻ đổ xô đi tiêm vắc-xin ngay khi nó được tung ra thị trường.
Thứ hai, Merck đã chi hàng triệu đô la vận động hành lang với các cơ quan chính quyền tiểu bang, liên bang và các nhà lập pháp để bắt buộc tiêm vắc-xin Gardasil cho học sinh và thậm chí cả trẻ mẫu giáo. Họ gần như đã thành công! (Xem Chương 3: Có Âm Mưu Không?) Nhiều tiểu bang thậm chí còn soạn thảo luật bắt buộc tiêm vắc-xin trong trường học, nhưng do sự phẫn nộ của công chúng và các nhóm người tiêu dùng ồn ào, Merck đã phải tạm dừng chiến dịch vận động hành lang vào năm 2007.
Khủng khiếp đến mức nào?
Có một lý do khác khiến chiến dịch tiếp thị của Merck nghe có vẻ sáo rỗng. Một lần nữa, hãy quay lại với số liệu thống kê thuần túy để thấy việc tiêm vắc-xin phòng ngừa HPV nguy hiểm đến mức nào. Theo dữ liệu của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung ở Mỹ đã giảm hơn 70% trong khoảng thời gian từ những năm 1950 đến những năm 1990.
Đây là một thống kê khác. Ung thư cổ tử cung thậm chí còn không được liệt kê trong 10 loại ung thư hàng đầu tại Hoa Kỳ. Trong số những loại ung thư có tỷ lệ mắc cao nhất là ung thư phổi, ung thư vú và ung thư đại tràng. Vậy tại sao FDA lại đẩy nhanh việc phê duyệt một loại thuốc và tại sao các nhà lập pháp lại quá nôn nóng thông qua luật bắt buộc tiêm vắc-xin Gardasil cho một loại ung thư đang ngày càng suy giảm và thậm chí còn chưa gây ra báo động trong cộng đồng?
Gã khổng lồ dược phẩm rõ ràng không quan tâm đến việc giúp đỡ một số ít phụ nữ trẻ có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung sau này. Thay vào đó, họ muốn mở ra một thị trường tiềm năng khổng lồ cho vắc-xin ung thư.
Tài liệu của Merck cho biết điều quan trọng là phải nhận thức được rằng Gardasil không bảo vệ phụ nữ khỏi một số loại HPV "không có trong vắc-xin". Nói cách khác, ngay cả khi các bé gái chấp nhận rủi ro và tiêm vắc-xin, họ vẫn có thể bị nhiễm HPV!
Tiền máu
Nhưng liệu có lý do nào khác khiến Merck lại quá tập trung vào Gardasil không? Hãy quay lại vài năm trước, thời điểm xảy ra tranh cãi gay gắt và sau đó là việc thu hồi Vioxx, một loại thuốc giảm đau do Merck sản xuất và tiếp thị cho bệnh nhân viêm khớp.
Thuốc này đã bị thu hồi vào năm 2004 sau lời khai kết tội từ Văn phòng An toàn Dược phẩm (ODS) của FDA trong phiên điều trần tại Thượng viện. Trong lời khai của mình, Tiến sĩ David Graham, phó giám đốc khoa học và y khoa của ODS, thừa nhận Vioxx đã gây ra khoảng 38.000 cơn đau tim và đột tử do tim.
Graham cũng cho biết đây là "ước tính thận trọng" và số ca đau tim có thể dao động từ 88.000 đến 139.000, trong đó "30-40 phần trăm nạn nhân có thể đã tử vong".
Năm năm sau, bóng ma Vioxx lại một lần nữa xuất hiện trước mắt Merck. Tháng 11 năm 2009, phiên tòa xét xử vụ kiện liên quan đến Vioxx đã phơi bày những dữ liệu mật mà Merck đã che giấu. Dữ liệu cho thấy công ty đã biết về "tác dụng giết người" của Vioxx trong ba năm trước khi nó được công bố. Nói cách khác, các nhà sản xuất thuốc đã cố tình và sẵn sàng để những người cao tuổi bị viêm khớp tử vong vì chính loại thuốc do họ sản xuất chỉ để bảo vệ danh tiếng và lợi nhuận.
Điều thú vị là, khi sự thật gây sốc về Vioxx bị phanh phui khỏi tủ đồ của Merck, công ty này đã bắt tay vào âm mưu lừa đảo tiếp theo - Gardasil. Vậy nên, ngay khi công ty vừa hứng chịu một đòn chí mạng suýt nữa đã hủy hoại cả một nhà sản xuất thuốc, thì họ đã sản xuất một loại vắc-xin với hy vọng sẽ cứu vãn danh tiếng và thu về hàng tỷ đô la từ việc mất doanh số và các vụ kiện tụng liên quan đến Vioxx. Nhưng ai nói các công ty dược phẩm có lương tâm?
>>Tiếp: 7.6 Viêm gan B: Sát thủ giết chết trẻ sơ sinh
7.4 MMR: Thật kinh ngạc
>>Trước: 7.3 Bệnh bại liệt có tên gọi khác?
Quai bị: Vắc-xin MMR (sởi, quai bị, rubella) là một trong những loại vắc-xin gây tranh cãi nhất. Và một lời nhắc nhở về lý do tại sao phần lớn sự cường điệu về "diệt trừ" chỉ là cường điệu đến từ một lời cảnh tỉnh vào năm 2009-2010 tại Hoa Kỳ.
Trường hợp tôi đang đề cập đến là đợt bùng phát bệnh quai bị ở hơn 1.500 người tại các tiểu bang New York và New Jersey vào tháng 6 năm 2009 và kéo dài sang năm 2010. Đợt bùng phát xảy ra tại một trại hè ở New York và được truy tìm nguồn gốc từ một cậu bé 11 tuổi vừa trở về từ Vương quốc Anh, nơi dịch quai bị đã lây lan sang 4.000 người, hầu hết đã được tiêm phòng.
Các ca bệnh lan rộng ra khỏi New York, đến tận bang lân cận New Jersey, khi mọi người trở về nhà sau trại hè. Nhưng điều đáng nói hơn cả bản thân đợt bùng phát là bệnh quai bị được cho là đã bị xóa sổ ở Hoa Kỳ và nhiều người nhiễm bệnh từ cậu bé 11 tuổi đã được tiêm vắc-xin phòng bệnh.
Đây là nội dung mà Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) đã nêu trong báo cáo công bố trên Tạp chí Tuần báo về Bệnh tật và Tử vong ngày 12 tháng 2 năm 2010.
"Hầu hết những người bị bệnh đều đã tiêm vắc-xin quai bị, sởi và rubella (MMR). Trên thực tế, 88% đã tiêm ít nhất một liều vắc-xin và 75% đã tiêm hai liều."
Nhưng trước khi bạn nghĩ rằng CDC đột nhiên trở nên minh bạch và trung thực, đây là "tuyên bố miễn trừ trách nhiệm". Báo cáo nói thêm: "Tuy nhiên, vắc-xin không hiệu quả 100%. Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng một liều có hiệu quả từ 73 đến 91%, trong khi hiệu quả của hai liều dao động từ 79 đến 95%."
Tôi vẫn chưa hiểu được logic đằng sau lập luận của CDC. Nếu theo CDC, vắc-xin không hiệu quả 100% mà chỉ đạt 73-95%, thì tại sao vắc-xin lại không bảo vệ được đại đa số nhóm người nhiễm bệnh (77%) đã được tiêm phòng đầy đủ vắc-xin quai bị? Câu hỏi hiển nhiên cần đặt ra là tại sao nhóm dân số chưa tiêm vắc-xin lại có sức khỏe tốt hơn nhiều so với nhóm dân số đã tiêm vắc-xin? Tại sao mọi người nên tiêm vắc-xin phòng quai bị khi điều này làm tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh?
Cậu bé 11 tuổi được cho là nguyên nhân gây ra đợt bùng phát dịch bệnh cũng đã được "tiêm phòng đầy đủ", nghĩa là cậu bé đã được tiêm đủ hai liều vắc-xin MMR theo quy định để vắc-xin "có hiệu quả".
CDC cũng gọi đợt bùng phát này là "đợt bùng phát quai bị lớn nhất tại Hoa Kỳ kể từ năm 2006, khi Hoa Kỳ chứng kiến sự tái phát của bệnh quai bị với 6.584 ca được báo cáo". Đợt bùng phát này xảy ra trong cộng đồng sinh viên đại học. Trong trường hợp này, hầu hết sinh viên mắc bệnh quai bị đều đã được "tiêm phòng đầy đủ". Điều này không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì một cựu giám đốc CDC đã từng phát biểu trong đợt bùng phát năm 2006 rằng "ngay cả khi vắc-xin đạt hiệu quả tối ưu, nó cũng không bao giờ có khả năng bảo vệ 100%".
Chúng tôi không yêu cầu mức bảo vệ 100%. Một mức bảo vệ thông thường do giả dược tạo ra, có lẽ khoảng 30-40%, đã là tuyệt vời rồi. Nhưng vắc-xin quai bị thậm chí còn không đạt được mức đó. Thực tế, thay vì bảo vệ toàn dân khỏi bệnh quai bị, vắc-xin lại làm tăng đáng kể nguy cơ mắc bệnh.
Việc tiêm chủng phòng ngừa quai bị vẫn còn nhiều nghi vấn. Ngay cả khi ban đầu tiêm chủng có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh, nguy cơ nhiễm quai bị vẫn tăng lên sau khi miễn dịch mắc phải giảm dần. Năm 1995, một nghiên cứu do Dịch vụ Xét nghiệm Y tế Công cộng Vương quốc Anh thực hiện và được công bố trên tạp chí Lancet cho thấy trẻ em được tiêm vắc-xin MMR có nguy cơ bị co giật cao gấp ba lần so với trẻ em không tiêm. Nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng vắc-xin MMR làm tăng gấp năm lần số trẻ em mắc các bệnh rối loạn máu.
Trong một báo cáo do các cơ quan y tế Đức ban hành và được công bố trên tạp chí Lancet năm 1989, vắc-xin quai bị đã được tiết lộ là nguyên nhân gây ra 27 phản ứng thần kinh đặc hiệu, bao gồm viêm màng não, co giật do sốt, viêm não và động kinh. Một nghiên cứu ở Nam Tư cho thấy tỷ lệ viêm não do quai bị là 1/1.000 ca liên quan trực tiếp đến vắc-xin. Tạp chí Bệnh truyền nhiễm Nhi khoa Hoa Kỳ năm 1989 đã báo cáo rằng tỷ lệ này dao động từ 1/405 đến 1/7.000 ca tiêm vắc-xin quai bị.
Mặc dù quai bị thường là một bệnh nhẹ và tác dụng phụ của vắc-xin khá nghiêm trọng, nhưng nó vẫn được bao gồm trong vắc-xin MMR. Vắc-xin phòng rubella cũng vậy, mặc dù nó được biết là gây viêm khớp ở 3% trẻ em và 20% phụ nữ trưởng thành đã tiêm vắc-xin. Việc tiêm vắc-xin cho trẻ em chống lại những căn bệnh mà chúng có thể tự bảo vệ mình một cách tự nhiên là không có ý nghĩa gì.
Ví dụ, trong trường hợp bệnh quai bị, trẻ em mắc bệnh này khi còn nhỏ sẽ không bao giờ mắc bệnh này nữa. Như Barbara Loe Fisher, Chủ tịch kiêm đồng sáng lập Trung tâm Thông tin Vắc xin Quốc gia, giải thích:
"Vắc-xin được cho là có khả năng đánh lừa hệ thống miễn dịch của cơ thể sản xuất kháng thể chống lại nhiễm trùng do vi-rút và vi khuẩn theo cách tương tự như việc thực sự mắc bệnh thường tạo ra khả năng miễn dịch với các bệnh nhiễm trùng trong tương lai.
Nhưng vắc-xin thường đưa vào cơ thể con người những loại vi-rút sống đã được biến đổi trong phòng thí nghiệm và vi khuẩn đã chết cùng với các hóa chất, kim loại, thuốc và các chất phụ gia khác như formaldehyde, nhôm, thủy ngân, monosodium glutamate, natri photphat, phenoxyethanol, gelatin, sulfit, protein nấm men, kháng sinh cũng như một lượng RNA và DNA không xác định từ nuôi cấy mô tế bào động vật và con người.
Trong khi khả năng phục hồi tự nhiên sau nhiều bệnh truyền nhiễm kích thích khả năng miễn dịch suốt đời, vắc-xin chỉ cung cấp khả năng bảo vệ tạm thời và hầu hết các loại vắc-xin đều yêu cầu liều 'tăng cường' để kéo dài khả năng miễn dịch nhân tạo do vắc-xin tạo ra.
Thực tế là vắc-xin do con người tạo ra không thể tái tạo được trải nghiệm tự nhiên của cơ thể với căn bệnh này là một trong những điểm gây tranh cãi chính giữa những người khăng khăng rằng nhân loại không thể sống nếu không sử dụng hàng loạt nhiều loại vắc-xin và những người tin rằng tính toàn vẹn sinh học của nhân loại sẽ bị tổn hại nghiêm trọng nếu tiếp tục sử dụng chúng.”
Bệnh sởi: Giống như quai bị, bệnh sởi không phải là một bệnh nguy hiểm ở trẻ em. Quan niệm cho rằng bệnh sởi có thể dẫn đến mù lòa là một quan niệm sai lầm, bắt nguồn từ việc trẻ nhạy cảm hơn với ánh sáng trong thời gian bị bệnh. Vấn đề này sẽ giảm bớt khi phòng được làm mờ và biến mất hoàn toàn khi trẻ hồi phục.
Trong một thời gian dài, người ta tin rằng bệnh sởi làm tăng nguy cơ nhiễm trùng não (viêm não), một bệnh chỉ xảy ra ở trẻ em sống ở những vùng kinh tế khó khăn và bị suy dinh dưỡng. Trong khi đó, ở trẻ em khá giả, chỉ có 1/100.000 trẻ bị nhiễm bệnh. Hơn nữa, chưa đến một nửa số trẻ được tiêm nhắc lại vắc-xin sởi được bảo vệ khỏi căn bệnh này.
Đây là thêm bằng chứng cho thấy vắc-xin không hiệu quả. Tỷ lệ tử vong do bệnh sởi đã giảm 95% trước khi vắc-xin sởi được đưa vào sử dụng. Tại Anh, mặc dù tiêm chủng rộng rãi cho trẻ mới biết đi, số ca mắc sởi gần đây đã tăng gần 25%.
Hoa Kỳ đang phải chịu đựng tình trạng tỷ lệ mắc bệnh sởi ngày càng tăng, mặc dù (hoặc vì) vắc-xin sởi đã có hiệu lực từ năm 1957. Sau một vài lần giảm và tăng đột ngột, các trường hợp mắc bệnh sởi hiện nay lại đột ngột giảm trở lại. CDC thừa nhận rằng điều này có thể liên quan đến sự sụt giảm chung về số ca mắc sởi ở Tây Bán Cầu. Nó không liên quan gì đến vắc-xin.
Ngoài bằng chứng này, nhiều nghiên cứu cho thấy vắc-xin sởi không hiệu quả. Ví dụ, như đã được báo cáo trong một bài báo năm 1987 Bài báo trên Tạp chí Y học của New England về đợt bùng phát bệnh sởi năm 1986 ở Corpus Christi, Texas, phát hiện 99 phần trăm nạn nhân đã được tiêm phòng.
Năm 1987, 60% số ca mắc sởi xảy ra ở trẻ em đã được tiêm vắc-xin đầy đủ ở độ tuổi phù hợp. Một năm sau, con số này tăng lên 80%.
Vắc-xin MMR: Ngoài việc không bảo vệ trẻ khỏi bệnh sởi và thậm chí có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh, vắc-xin MMR đã được chứng minh là gây ra nhiều tác dụng phụ. Trong số đó có viêm não, biến chứng não, co giật, chậm phát triển trí tuệ và thể chất, sốt cao, viêm phổi, viêm màng não, viêm màng não vô khuẩn, quai bị, sởi không điển hình, các rối loạn về máu như giảm tiểu cầu, sốc nhiễm trùng, viêm khớp, SSPE, liệt một bên và tử vong.
Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Lancet năm 1985, nếu trẻ em mắc "bệnh sởi nhẹ" do tiêm vắc-xin, thì tình trạng phát ban kém phát triển kèm theo có thể là nguyên nhân gây ra các bệnh thoái hóa như ung thư sau này.
Năm 1994, Bộ Y tế Hoa Kỳ thừa nhận với các bác sĩ rằng 11% số người tiêm vắc-xin rubella lần đầu sẽ bị viêm khớp. Các triệu chứng dao động từ đau nhẹ đến tê liệt nghiêm trọng. Các nghiên cứu khác cho thấy 30% khả năng phát triển viêm khớp do phản ứng trực tiếp với vắc-xin rubella.
Thay vì tiêm cho con mình đầy thuốc độc hóa học do bàn tay con người tạo ra, cha mẹ nên đầu tư thời gian và công sức vào việc xây dựng hệ miễn dịch tự nhiên cho con sẽ khôn ngoan hơn nhiều. Hơn nữa, việc để trẻ mắc một số bệnh thời thơ ấu được đề cập ở trên có thể mang lại nhiều lợi ích hơn là hại cho hệ miễn dịch của trẻ!
>>Tiếp: 7.5 Trò lừa bịp về HPV
7.3 Bệnh bại liệt có tên gọi khác?
>>Trước: 7.2 CFS: Bệnh bại liệt thời đại mới
Sẽ thế nào nếu có người nói với bạn rằng một trong những căn bệnh đáng sợ nhất của nhân loại - bệnh bại liệt - vẫn chưa được xóa sổ như chúng ta vẫn nghĩ? Và rằng giới y khoa đang che giấu một bí mật khủng khiếp, vô cùng khủng khiếp?
Hầu hết mọi người sẽ phản ứng theo kiểu Pavlov với một câu nói như thế này: "Những kẻ theo thuyết âm mưu." Được rồi, hãy bắt đầu từ những ngày đầu, quay trở lại những năm 1950 và 1960, khi vắc-xin bại liệt Salk và Sabine được giới thiệu. Việc ra đời hai loại vắc-xin này thực sự là một cột mốc y học; chỉ có điều, không hoàn toàn theo cách mà hầu hết chúng ta vẫn được dạy dỗ.
Những loại vắc-xin này chắc chắn đã gióng lên hồi chuông báo tử cho ba chủng vi-rút bại liệt được cho là đã giết chết hàng triệu người trên toàn cầu trước khi vắc-xin phòng bệnh này được đưa vào sử dụng.
Vắc-xin chống bại liệt, đặc biệt là vắc-xin uống do Albert Sabin phát triển, đã tiêu diệt vi-rút bại liệt sống trong ruột non trên quy mô lớn. Nhờ vậy, vắc-xin, được tiêm cho hàng triệu người trong các đợt tiêm chủng bắt buộc trên khắp thế giới, đã làm thay đổi vĩnh viễn sự cân bằng tự nhiên trong ruột người - nó tiêu diệt một loại vi-rút và do đó cho phép các loại vi-rút khác, bị nó kiểm soát, sinh sôi nảy nở.
Những họ hàng của virus bại liệt - virus Coxsackie - dường như cũng gây tổn thương hệ thần kinh; chỉ có điều chúng không gây tê liệt, vốn là đặc trưng của bệnh bại liệt cổ điển. Sau khi virus bại liệt bị chế ngự, nhiều loại enterovirus khác - 72 loại trong số đó đã được xác định trong ruột người - bắt đầu gây ra các triệu chứng giống bại liệt trên diện rộng khi chúng được phép sinh sôi và xâm nhập vào máu và não.
Điều này đã dẫn đến một loạt các "hội chứng" thần kinh liên quan (một thuật ngữ thật tiện lợi khi giới y khoa muốn gây nhầm lẫn) bắt đầu xuất hiện với tần suất đáng báo động ở nhiều nhóm dân số. Những triệu chứng này bao gồm: nín thở, CFS, Viêm não tủy cơ, Đa xơ cứng, Hội chứng Tourette, Hội chứng Guillain-Barré, Động kinh vô căn và một "rối loạn học tập" thường gặp khác.
Trong khi bệnh bại liệt gây tổn thương cơ, khớp, tim, nội tiết và các cơ quan bạch huyết, những hội chứng này dẫn đến nhiều triệu chứng đa dạng hơn trên toàn cơ thể. Nhưng không chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà cả CFS và bại liệt đều có những tổn thương chung ở thân não, não giữa và não sau, và tủy sống trên. Và đây chỉ là một trong những "sự trùng hợp ngẫu nhiên" đó.
Do đó, nhiều nhà nghiên cứu tin rằng những hội chứng khác này chỉ đơn giản là những dạng bại liệt mới do vắc-xin phòng bại liệt gây ra, cái giá mà chúng ta phải trả cho việc phá hoại thiên nhiên.
>>Tiếp: 7.4 MMR: Thật kinh ngạc
7.2 CFS: Bệnh bại liệt thời đại mới
>>Trước: 7.1 Tiêm chủng cho trẻ em của chúng ta
Hội chứng mệt mỏi mãn tính - Chronic Fatigue Syndrome (CFS) hay Hội chứng suy nhược miễn dịch và mệt mỏi mãn tính -Chronic Fatigue and Immune Dys-function Syndrome (CFIDS) là một tình trạng liên quan đến một loạt các triệu chứng bao gồm cảm giác mệt mỏi dai dẳng, suy nhược, đau nhức cơ và khớp, các triệu chứng của bệnh cúm như đau họng, suy giảm trí nhớ, đau đầu và sưng hạch bạch huyết.
Bệnh này còn được gọi là Viêm não tủy cơ - Myalgic Encephalomyelitis, hoặc ME.
Khi bị kích hoạt, tình trạng này có thể kéo dài hàng tháng trời và thậm chí khiến một số người không thể ra khỏi giường vào buổi sáng. Nó thường cản trở hoạt động bình thường, khiến người bệnh không thể làm việc và thực hiện các công việc hàng ngày. Nó ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của cuộc sống.
Hội chứng mệt mỏi mãn tính (CFS), mặc dù rất thực tế đối với những người mắc phải, vẫn được mô tả là "mơ hồ" vì không có cơ chế bệnh sinh rõ ràng nào liên quan. Nói cách khác, y học vẫn chưa thể xác định chính xác nguyên nhân hoặc tìm ra phương pháp chữa trị cho tình trạng này.
Vậy mối liên hệ giữa CFS và vắc-xin là gì? Các nghiên cứu về CFS cho thấy căn bệnh này luôn liên quan đến nhiễm trùng, mất cân bằng nội tiết tố, suy giảm miễn dịch và phản ứng bất thường với nhiễm trùng. Tình trạng này dường như có thể được kích hoạt bởi nhiều tác nhân kích thích, bao gồm cả vắc-xin. Hãy cùng thảo luận về cách vắc-xin có thể gây ra CFS như một tác dụng phụ.
Trước khi tiếp tục, hãy để tôi làm rõ ý tôi khi nói đến "tác dụng phụ". Tôi không có ý nói đến một tình trạng tạm thời như sổ mũi hay sốt rồi hết. Mặc dù một số triệu chứng có thể chỉ là tạm thời như đau nhức cánh tay sau khi tiêm hoặc sốt kéo dài vài ngày, nhưng tác dụng phụ của vắc-xin lại rất nghiêm trọng và kéo dài suốt đời.
Những điều này xảy ra vì vắc-xin đã làm thay đổi cơ bản các cơ chế sinh hóa trong cơ thể. Những thay đổi này, đến lượt nó, dẫn đến những thay đổi nghiêm trọng về cấu trúc và thần kinh, không thể đảo ngược. Trong một số trường hợp, những hậu quả này thậm chí có thể dẫn đến tử vong.
Các nhà nghiên cứu hiện tin rằng CFS có thể được kích hoạt bởi các tác nhân gây bệnh, kích hoạt phản ứng miễn dịch bất thường trong cơ thể. Hệ thống miễn dịch của con người bao gồm hai loại phản ứng - phản ứng Th1 (T-cell Helper Type 1) hay miễn dịch qua trung gian tế bào và phản ứng Th2 (Th2 hay T-cell Helper Type 2) hay đáp ứng dịch thể, trong đó kháng thể chủ yếu được sử dụng để phát hiện tác nhân gây bệnh.
Khi tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể, hệ thống miễn dịch sẽ rung lên "cảnh báo Th2". Nó sản xuất và giải phóng kháng thể vào máu. Các kháng thể này cảm nhận hoặc nhận diện tác nhân gây bệnh là tác nhân lạ, xa lạ và có khả năng gây hại.
Khi điều này xảy ra, phản ứng Th1 sẽ bắt đầu. Với sự tham gia của các tế bào trong VA, amidan, tuyến ức, lách, hạch bạch huyết và hệ thống bạch huyết, hệ miễn dịch sẽ tiêu diệt, tiêu hóa và đào thải các tác nhân gây bệnh này, nhưng trước đó, vi khuẩn đã giúp cơ thể tiêu diệt các tế bào yếu, bị tổn thương và các độc tố đã phân hủy. Sự tấn công chủ động này tạo nên cái mà y học gọi là "phản ứng viêm cấp tính", liên quan đến tình trạng viêm - sốt, đau, khó chịu và tiết dịch nhầy hoặc mủ.
Một hệ thống miễn dịch khỏe mạnh sử dụng cả phản ứng Th1 và Th2 để vô hiệu hóa tác nhân gây bệnh. Khi tác nhân gây bệnh bị tiêu diệt và cơn đau giảm bớt (tức là "trở nên không cần thiết"), hệ thống miễn dịch sẽ trở lại trạng thái bình thường, không còn khả năng chiến đấu.
Tuy nhiên, bệnh nhân CFS biểu hiện phản ứng miễn dịch bị lệch lạc theo hai hướng. Thứ nhất, họ có phản ứng Th2 trội. Thứ hai, cơ thể họ không thể tắt phản ứng Th2. Kết quả là, hệ thống miễn dịch luôn ở trong trạng thái chiến đấu cao độ ngay cả khi không bị tấn công.
Nói cách khác, hệ thống miễn dịch nghĩ rằng nó đang chiến đấu và bảo vệ cơ thể trong khi thực tế, nó không cần phải làm như vậy, hoặc có vẻ như vậy.
Trên thực tế, các thành phần độc hại của vắc-xin có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng gan và ngăn cơ thể tự đào thải độc tố. Trong cuốn sách "The Amazing Liver and Gallbladder Flush" (Thanh Lọc Gan và Túi Mật Kỳ Diệu), tôi mô tả cách những độc tố mạnh mẽ như vậy có thể tạo ra hàng trăm, hàng ngàn viên sỏi mật trong gan, làm tắc nghẽn hàng ngàn ống dẫn mật trong gan, vốn là tuyến đường giải độc chính của cơ thể. Do đó, độc tố vắc-xin và các chất thải khác mà gan được thiết kế để loại bỏ sẽ tích tụ trong các mô mỏng manh của các cơ quan và hệ thống. Điều này kích hoạt phản ứng miễn dịch gần như liên tục để chữa lành tổn thương do độc tố và chất thải tích tụ gây ra.
Trạng thái kích hoạt miễn dịch liên tục này dẫn đến cảm giác mệt mỏi mãn tính và suy nhược cùng các triệu chứng khác mà CFS gặp phải. Tuy nhiên, ngay cả khi mối liên hệ nhân quả giữa bệnh và các tác nhân gây bệnh vẫn chưa được khoa học làm sáng tỏ, chúng ta vẫn có thể xác định một số tình huống và tác nhân kích hoạt bệnh. Một trong số đó là vắc-xin.
Có một số lượng đáng kể các trường hợp mắc CFS đã được tiêm vắc-xin ngay trước khi bệnh khởi phát. Về cơ bản, vắc-xin kích thích hệ miễn dịch của cơ thể vừa đủ để tạo ra kháng thể chống lại một tác nhân gây bệnh cụ thể nhưng không đủ để gây ra phản ứng viêm toàn diện. Vắc-xin là một phương pháp kích thích nhân tạo cơ thể phản ứng giống như khi phát hiện ra vi-rút.
Câu trả lời cho câu hỏi tại sao và bằng cách nào vắc-xin gây ra phản ứng CFS hiện đã khá rõ ràng: Hệ thống miễn dịch có xu hướng thiên về phản ứng Th2 (bao gồm kháng thể) và không tắt hoàn toàn sau khi phát hiện tác nhân gây nhiễm trùng sẽ bị kích thích phản ứng theo cách tương tự bởi vắc-xin hóa học.
Nói một cách đơn giản, vắc-xin mô phỏng các loại vi-rút gây bệnh mà chúng được thiết kế để phòng ngừa; chỉ khác là ở liều lượng nhẹ hơn. Trong các trường hợp CFS, cơ thể không thể phân biệt được giữa vi-rút gây bệnh và vắc-xin.
Một số nhà nghiên cứu đã ghi nhận mối liên hệ giữa CFS và các loại vắc-xin cụ thể, chẳng hạn như vắc-xin ngừa viêm gan B, tả, cúm, uốn ván và thương hàn. Thực tế là những người dễ mắc CFS, đau xơ cơ, dị ứng và các rối loạn tự miễn thường xuyên báo cáo các đợt bùng phát sau khi tiếp xúc với nhiều loại vắc-xin khác nhau. Đó là bởi vì tất cả những tình trạng này đều có một điểm chung là phản ứng bất thường, tăng cao của tế bào Th2.
Về mặt logic, những người này nên được cảnh báo trước về khả năng bùng phát bệnh nếu được tiêm vắc-xin. Nhưng liệu các cơ quan y tế công cộng có bao giờ giáo dục công chúng về những rủi ro tiềm ẩn hay không? Liệu vắc-xin có đi kèm với chống chỉ định cho bệnh nhân CFS? Và với rất nhiều loại vắc-xin bắt buộc ở Hoa Kỳ (Xem Chương 3: Có Âm mưu nào không?), liệu chính phủ có đúng về mặt đạo đức và luân lý khi buộc công dân tiêm chủng hoặc bỏ tù theo Đạo luật Yêu nước hay không?
Điều gì cho phép chính phủ có quyền đùa giỡn với mạng sống con người, viện dẫn lý do an toàn sức khỏe cộng đồng và bây giờ là an ninh nội địa?
>>Tiếp: 7.3 Bệnh bại liệt có tên gọi khác?
7. Chương 5 - Sự say sưa của vacxin
7.1 Tiêm chủng cho trẻ em của chúng ta
>>Trước: 6.7 Cánh cửa dẫn đến diệt chủng?
Khoảng ba mươi mũi tiêm trong 18 tháng đầu đời. Đó là số lần trung bình một trẻ sơ sinh ở Mỹ được tiêm chủng. Trẻ em ở Vương quốc Anh thì khá hơn một chút. Các em chỉ được tiêm chủng 25 lần ở độ tuổi này.
Và để đảm bảo bạn thực sự đi đúng lộ trình tiêm chủng đủ sớm, trẻ sơ sinh bắt buộc phải được tiêm chín hoặc nhiều loại kháng nguyên khác nhau vào hệ thống miễn dịch chưa trưởng thành của trẻ ngay sau khi sinh, một số loại trong số đó là sự kết hợp của nhiều loại vắc-xin.
Điều tuyệt vời nhất cho các công ty dược phẩm lớn là hầu hết các loại vắc-xin này đều được pháp luật bảo hộ. Trẻ em không được tiêm chủng theo lịch trình của CDC sẽ không thể vào hoặc tiếp tục theo học hệ thống giáo dục chính quy.
Như thể những lời lẽ ép buộc này còn chưa đủ, toàn bộ dân số trên toàn thế giới còn bị tẩy não đến mức tin rằng họ hoặc con cái họ sẽ mắc phải những căn bệnh nguy hiểm đến tính mạng nếu không được tiêm vắc-xin. Và chẳng phải tất cả chúng ta đều mong muốn điều tốt nhất cho con cái mình sao?
Trong nhiều thập kỷ, các nhà khoa học và bác sĩ hàng đầu đã mạnh mẽ ủng hộ quan điểm cho rằng tiêm chủng cho trẻ em là cần thiết để bảo vệ các em khỏi các bệnh như bạch hầu, đậu mùa, bại liệt, tả, thương hàn và sốt rét. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy việc tiêm chủng không chỉ không cần thiết mà thậm chí còn có hại.
Đổ hóa chất độc hại xuống hồ không làm cho nó miễn nhiễm với các chất ô nhiễm. Tương tự, tiêm chất độc sống có trong vắc-xin vào máu trẻ em khó có thể mang lại cho thế hệ tương lai cơ hội sống khỏe mạnh thực sự.
7.1.1 Nạn nhân 'tự nguyện'
Trẻ em dễ bị tổn thương nhất vì hệ miễn dịch của các em gần như không có khả năng chống lại các chất độc trong vắc-xin. Các em gặp nhiều bất lợi vì mẹ của các em không truyền miễn dịch qua sữa mẹ vì họ đã được tiêm vắc-xin và không còn tạo ra một số kháng thể nhất định nữa.
Thực tế là hệ miễn dịch của con người được thiết kế để bảo vệ chúng ta khỏi cả những căn bệnh chết người, nhưng điểm mấu chốt ở đây, như đã thảo luận trong Chương 1: Huyền thoại về Vắc-xin, chính là khả năng miễn dịch tự nhiên. Mặt khác, vắc-xin sử dụng các hóa chất tổng hợp để tạo ra khả năng miễn dịch nhân tạo. Chúng hoạt động dựa trên giả định rằng khả năng miễn dịch tự nhiên là không đủ tốt.
Nhưng liệu tự nhiên có thể mắc phải một sai lầm nghiêm trọng đến mức khiến chúng ta phụ thuộc vào việc tiêm chất độc hại lạ vào máu khi chúng ta có một hệ thống miễn dịch phức tạp và phát triển đến mức hàng triệu máy tính tinh vi không thể bắt chước được hiệu suất của nó? Điều này khá khó xảy ra.
Thật khó tin rằng những hóa chất này, chứa ADN động vật, các mảnh virus đã bị làm yếu, dung dịch ướp xác, thủy ngân và những thứ nguy hiểm khác, lại là cứu cánh cho cuộc sống hiện đại của chúng ta. Điều đáng ngạc nhiên không kém là vắc-xin, vốn gây ra những phản ứng nghiêm trọng và ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe, lại được thiết kế để ngăn chặn các mầm bệnh xâm nhập, trong khi nhiều mầm bệnh trong số đó cơ thể chúng ta được thiết kế để tự chống lại hoặc thực sự giúp chúng ta phục hồi sau một căn bệnh nghiêm trọng như ung thư. (Để biết thêm chi tiết, hãy xem cuốn sách của tôi "Ung thư không phải là một căn bệnh - Đó là một cơ chế sinh tồn" - Cancer is not a Disease - It's a Survival Mechanism)
Một trong những lý do chính khiến vắc-xin trở nên nguy hiểm là vì chúng chưa bao giờ được thử nghiệm an toàn trên người; chúng chỉ được thử nghiệm trên động vật. Vắc-xin không thể được chứng minh là an toàn cho đến khi chúng được tiêm cho người lần đầu tiên.
Nhưng điều này sẽ biến họ thành "chuột bạch" và không thể dự đoán được phản ứng của họ. Đây là rủi ro mà tất cả những người tiêm vắc-xin đều phải chấp nhận. Một số sẽ tử vong, số khác sống sót nhưng mắc bệnh nhiều năm sau đó, và nhiều người khác sẽ sống mà không gặp phải hậu quả nghiêm trọng lâu dài. Nhưng vì tất cả các loại vắc-xin đều được thiết kế để gây ra chính căn bệnh mà chúng được tạo ra để phòng ngừa (để thiết lập miễn dịch), nên một loại vắc-xin thực sự an toàn lại là loại không hiệu quả! Thật trớ trêu, phải không?
Trong điều kiện bình thường, tất cả thức ăn, đồ uống, v.v. được đưa vào cơ thể đều phải đi qua niêm mạc, thành ruột và gan trước khi đến được những nơi quan trọng như máu, tim và não.
Sự xuất hiện đột ngột của chất độc trong máu thường dẫn đến phản ứng của hệ miễn dịch, sử dụng toàn bộ kho kháng thể để chữa lành cơ thể khỏi các tổn thương do vắc-xin gây ra và ngăn ngừa tử vong do ngộ độc. Hiện tượng này được gọi là phản ứng dị ứng và trong một số trường hợp, nó có thể dẫn đến suy sụp đột ngột, đôi khi gây tử vong, được gọi là sốc phản vệ.
Trong số các nguyên nhân gây sốc phản vệ có tiêm chủng (DTaP), viêm gan B và ho gà. Hệ miễn dịch của người trẻ thường không đủ trưởng thành để chống lại sự tấn công như vậy, dẫn đến tình trạng mà giới y khoa gọi là Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh hay SIDS.
Nhà nghiên cứu nổi tiếng, Tiến sĩ Kenneth Bock, chỉ ra rằng việc tiêm chủng cho trẻ em có thể khiến chúng quá mẫn cảm với dị ứng, bệnh chàm và một số loại thực phẩm, gây ra các phản ứng cấp tính với một loạt các kích thích khó xác định. Do đó, tiêm chủng thực sự có thể khiến trẻ em nhạy cảm hơn với các rối loạn dị ứng vì các hóa chất và vật liệu di truyền trong vắc-xin làm thay đổi cách thức hoạt động của hệ miễn dịch. Hệ miễn dịch bị lệch về phía hormone Th-2 với sự thiếu hụt tương đối của Th-1.
Một số nhà nghiên cứu thậm chí còn cho rằng việc mắc một số bệnh như quai bị và sởi khi còn nhỏ là lành mạnh vì chúng thực sự làm giảm nguy cơ dị ứng nhờ tăng cường hệ miễn dịch. Nghiên cứu tôi đã đề cập trước đó cho thấy rõ ràng rằng tỷ lệ mắc bệnh hen suyễn và các bệnh liên quan đến dị ứng khác tăng mạnh sau khi tiêm vắc-xin.
7.1.2 Ngụy biện & Hậu quả
Kể từ khi Louis Pasteur đưa ra học thuyết sai lầm về mầm bệnh (Xem Chương 1: Huyền thoại về vắc-xin), giới khoa học đã liên kết nhiều loại vi khuẩn, vi-rút và các tác nhân gây bệnh khác với các căn bệnh đe dọa tính mạng mà các công ty dược phẩm đã chế tạo ra một loại áo giáp bảo vệ trong các lọ nhỏ của họ.
Vấn đề là, bất chấp những tuyên bố thành công, một số loại vắc-xin vẫn liên tục được cho là có liên quan đến các triệu chứng và hội chứng cụ thể, một số trong đó vẫn khiến các nhà khoa học và bác sĩ đau đầu cho đến tận ngày nay. Trong số các bệnh có liên quan đến vắc-xin có thể kể đến hội chứng mệt mỏi mãn tính, rối loạn tự miễn, khuyết tật học tập, viêm não, ức chế tăng trưởng, rối loạn phát triển và tăng động.
Một số vấn đề này, chẳng hạn như khuyết tật học tập, từng bị coi là những vấn đề đơn giản của quá trình trưởng thành. Các nhà nghiên cứu y khoa hiện nay nhận ra chúng là các dạng viêm não (bệnh viêm não). Một thống kê đáng kinh ngạc: Hơn 20 phần trăm trẻ em Mỹ - cứ năm trẻ thì có một trẻ - mắc phải những vấn đề này hoặc các vấn đề liên quan.
Ngày càng có nhiều nghiên cứu khoa học chỉ ra rằng các bệnh mãn tính như viêm não, viêm khớp dạng thấp, bệnh đa xơ cứng, bệnh bạch cầu và các dạng ung thư khác, thậm chí cả HIV, có thể do vắc-xin tiêm cho trẻ sơ sinh gây ra.
Ví dụ, viêm khớp dạng thấp, một căn bệnh viêm khớp, từng là nỗi ám ảnh của người cao tuổi. Giờ đây, căn bệnh tàn tật này rất phổ biến ở những người trẻ tuổi và thường liên quan đến việc tiêm vắc-xin phòng sởi và rubella.
Hội chứng Guillain-Barré, một căn bệnh nghiêm trọng dẫn đến liệt, là một hội chứng khác luôn gắn liền với việc tiêm chủng sởi, bạch hầu, cúm, uốn ván và vắc-xin bại liệt đường uống. Điều này không có gì đáng ngạc nhiên khi xét đến độc tính cao của vắc-xin. Ai cũng biết rằng trẻ em có hệ miễn dịch yếu sẽ gặp phải các biến chứng nghiêm trọng hơn so với những trẻ có thể trạng và hệ miễn dịch khỏe mạnh hơn nhiều.
7.1.3 Mua vào huyền thoại
Gần như không thể ước tính được thiệt hại và đau khổ đã và sẽ xảy ra trong tương lai do thiếu thông tin về mối nguy hiểm của các chương trình tiêm chủng hiện đại. Cha mẹ muốn làm điều tốt nhất cho con cái và họ mang trên mình trách nhiệm nặng nề trong việc giữ cho con khỏe mạnh và an toàn. Thông tin sai lệch có thể gây ra xung đột đáng kể giữa các bậc cha mẹ vì họ không muốn bỏ bê sức khỏe của con cái hoặc gây ra bất kỳ tổn hại nào cho chúng.
Những người ủng hộ vắc-xin lập luận rằng công thức hóa học của họ không chỉ cứu sống con người; chúng còn ngăn ngừa dịch bệnh và gần như xóa sổ một số căn bệnh chết người khỏi bề mặt trái đất!
Như đã thảo luận trong Chương 2: Những Sai Lầm Lịch Sử, đây là một huyền thoại. Sự thật là bốn căn bệnh gây tử vong hàng đầu ở trẻ em - sốt ban đỏ, ho gà, bạch hầu và sởi - đã giảm hơn 90% trước khi vắc-xin phòng ngừa các bệnh này ra đời! Lý do các bệnh này biến mất là do điều kiện sống như vệ sinh, điều kiện vệ sinh và mức sống đã được cải thiện đáng kể và người dân ngày càng được tiếp cận với thực phẩm lành mạnh.
Quan sát này được ủng hộ bởi các học giả nổi tiếng đã nghiên cứu vắc-xin như Tiến sĩ Andrew Weil. Ông chỉ ra rằng nhiều bệnh nghiêm trọng như tả, thương hàn, uốn ván, bạch hầu và ho gà đã suy giảm trong hàng trăm năm qua, thậm chí trước cả khi vắc-xin phòng ngừa chúng ra đời.
Một nhà nghiên cứu vắc-xin uy tín khác, Viera Scheibner, chỉ ra rằng trước năm 1940, số người tử vong vì bệnh bạch hầu ở châu Âu là không đáng kể. Nhưng sau năm 1940, khi việc tiêm chủng bắt buộc được thực hiện trên quy mô lớn để chống lại căn bệnh này, dịch bệnh bạch hầu lại bùng phát ở những người đã được tiêm chủng đầy đủ.
Những năm 1940 cũng chứng kiến các chiến dịch tiêm chủng hàng loạt chống lại bệnh ho gà và uốn ván ở nhiều quốc gia. Tiếp theo đó là sự bùng phát của cái gọi là "bệnh bại liệt do kích thích".
Một vấn đề khác của việc tiêm chủng là chúng được tiêm một cách bừa bãi, bất kể tình trạng sức khỏe của trẻ. Nhiều trẻ sơ sinh thậm chí không có cơ hội khỏe mạnh sau này vì bị tiêm quá nhiều loại độc tố mà chúng không thể chống lại. Ở giai đoạn phát triển này, trẻ chưa có được khả năng miễn dịch tự nhiên hoàn chỉnh và ít có khả năng tự bảo vệ mình.
Bằng chứng được ghi chép lại về giá trị của việc tiêm chủng toàn diện đến mức vào năm 1986, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua luật liên bang bồi thường thiệt hại cho trẻ em do tiêm chủng. Theo luật này, chính phủ không còn chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nữa, mà thay vào đó, các bác sĩ và nhà sản xuất vắc-xin phải bồi thường hàng triệu đô la.
>>Tiếp: 7.2 CFS: Bệnh bại liệt thời đại mới
6.7 Cánh cửa dẫn đến diệt chủng?
Trước: 6.6 Ngọc trai trước khi có cúm lợn
Câu hỏi ở đây là: Điều gì sẽ xảy ra khi bạn muốn rửa "tiền bẩn" và tỏ ra mình là một nhà truyền giáo thời hiện đại? Hãy gửi nó đến tiệm giặt ủi. Trong trường hợp này, "chợ giặt ủi" là một bình phong trị giá hàng tỷ đô la cho các chương trình y tế, bao gồm nghiên cứu về bệnh tật, các thí nghiệm tiêm chủng và các chiến dịch được thực hiện ở các nước đang phát triển.
Và khi bạn tình cờ là người giàu nhất thế giới, việc bay khắp nơi và tự cho mình là vị cứu tinh thật dễ dàng. Vậy nên, trong khi hầu hết thế giới đang ca ngợi Bill Gates, nhà sáng lập Microsoft, vì đã dành cả gia tài để chống lại bệnh tật và thảm họa ở các nước đang phát triển, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về bài tập quan hệ công chúng này để khám phá sự thật khủng khiếp.
Thật trớ trêu khi Gates lại chọn câu trích dẫn sau đây khi công bố sáng kiến trị giá 750 triệu đô la của Quỹ Bill và Melinda Gates, đây cũng là quỹ lớn nhất nước Mỹ với số tiền tài trợ là 24,2 tỷ đô la từ Microsoft Corp.
Khi khởi động sáng kiến mang tên Quỹ toàn cầu vắc-xin cho trẻ em, Bill Gates đã phát biểu vào năm 2000: "Dường như ở mọi ngóc ngách mới mà chúng ta đi qua, gia tộc Rockefeller đã có mặt ở đó, và trong một số trường hợp, họ đã ở đó từ rất lâu rồi." Gates đã đưa ra bài phát biểu đó khi công bố rằng quỹ của ông sẽ cam kết tài trợ 555 triệu đô la cho các chương trình y tế trên toàn cầu.
Tôi nói mỉa mai vì nhà Rockefeller nổi tiếng là đã tài trợ cho những nghiên cứu gây tranh cãi, bị một số người gọi là "diệt chủng". Nghiên cứu này liên quan đến các chương trình giảm dân số, các chương trình cộng sản và xã hội chủ nghĩa, các thí nghiệm "kiểm soát tâm trí" hoặc thay đổi hành vi, và các thí nghiệm gây tranh cãi khét tiếng của Alfred Kinsey.
Nhưng gia đình Gates và Rockefeller là những người bạn và đối tác lâu năm trong Liên minh Toàn cầu về Vắc-xin và Tiêm chủng (GAVI), Liên minh kiểm soát các chương trình vắc-xin quốc tế lớn, có các thành viên sau: Quỹ Bill và Melinda Gates, Quỹ Rockefeller, Liên đoàn quốc tế các hiệp hội sản xuất dược phẩm, UNICEF, Ngân hàng Thế giới, WHO và nhiều chính phủ quốc gia.
Trong nghiên cứu vắc-xin, không gì có thể lớn hơn thế này. Tôi trình bày chi tiết điều này để cho thấy thế giới vắc-xin (và y tế) loạn luân đến mức nào. Nó cũng minh họa rằng quyền lực chỉ tập trung vào một số ít thực thể.
Khi bạn tiếp tục đọc phần này, hãy lưu ý cách mà chỉ một nền tảng duy nhất có liên kết chặt chẽ với nhiều khía cạnh khác nhau của chương trình tiêm chủng thành một căn bệnh lớn hơn - căn bệnh kéo dài.
Có gì ngạc nhiên khi Quỹ Gates đang sử dụng ảnh hưởng to lớn của mình trong cuộc tranh luận về cách cung cấp thuốc điều trị AIDS và các bệnh hiểm nghèo khác giá rẻ hơn cho các quốc gia nghèo? Đôi khi, quỹ này còn công khai đóng vai trò trung gian giữa các quốc gia đang phát triển và các công ty dược phẩm.
Chương trình nghị sự này của quỹ gắn liền chặt chẽ với một trong nhiều lợi ích toàn cầu khác của quỹ, đó là thúc đẩy thuốc kháng vi-rút (ARV) ở châu Phi "nghèo đói và đang bị AIDS hoành hành". Thuốc ARV đang là phương pháp điều trị AIDS tiên tiến nhất, và việc thúc đẩy các loại thuốc này củng cố toàn bộ tiền đề mà các tập đoàn dược phẩm lớn (Big Pharma) dựa vào: rằng các tập đoàn ma túy là vị cứu tinh của căn bệnh đáng sợ nhất mà con người từng biết đến. Do đó, các tập đoàn này kiểm soát sức khỏe của chúng ta, và thậm chí cả sức khỏe của cả một quốc gia, trong trường hợp này là các quốc gia đang phát triển.
Đây là một phần khác trong "chiếc bánh" của Quỹ Gates. Năm 2008, quỹ đã công bố "Những Thử Thách Lớn" (Grand Challenges Explorations), một sáng kiến kéo dài năm năm trị giá 100 triệu đô la dành cho các nhà khoa học tại 22 quốc gia. Quỹ cho biết họ muốn "khám phá những phương pháp táo bạo và phần lớn chưa được chứng minh (tức là thử nghiệm trên người) để cải thiện sức khỏe toàn cầu".
Họ đã che giấu hình ảnh của mình như thế nào? Theo quỹ này, họ đang tích cực thúc đẩy nghiên cứu nhằm ngăn ngừa hoặc chữa trị các bệnh truyền nhiễm như HIV/AIDS và tìm cách khắc phục tình trạng kháng thuốc (đọc nghiên cứu ARV).
Trong một thông cáo báo chí, quỹ đã nói một điều nghe có vẻ "tiên tiến" với một số người nhưng lại đáng báo động khi đọc kỹ từng chữ. Quỹ cho biết số tiền này được dành cho các dự án "vượt ra ngoài các mô hình khoa học hiện hành". Khoản tiền khổng lồ này đã được chuyển đến các trường đại học, cơ quan chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận và sáu công ty tư nhân.
Bây giờ chúng ta hãy cùng xem xét một lý do tại sao Bill và Melinda Gates lại làm theo lệnh của Big Pharma. Năm 2002, tờ The Wall Street Journal báo cáo rằng họ đã mua cổ phiếu trị giá 205 triệu đô la của chín công ty dược phẩm lớn, bao gồm Merck & Co, Pfizer Inc, Johnson & Johnson, Wyeth và Abbott Labs, các nhà sản xuất thuốc và vắc-xin chống AIDS.
Ngay sau khi tin tức được công bố, nhiều người đã đặt câu hỏi về động cơ của Gates. Một số người nghi ngờ rằng lợi ích cổ phiếu của ông trong ngành dược phẩm sẽ thúc đẩy ý định đấu tranh quyết liệt để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của các nhà sản xuất thuốc lớn.
Mối lo ngại liên tục xuất hiện trước những nỗ lực của các nước đang phát triển nhằm chiếm đoạt bằng sáng chế để có thể sản xuất thuốc generic giá rẻ cho người dân. Bằng cách đứng về phía các tập đoàn dược phẩm lớn và nhờ ảnh hưởng của mình ở các nước đang phát triển, Gates giờ đây gần như có thể đảm bảo rằng bằng sáng chế vẫn thuộc về các công ty dược phẩm đa quốc gia và do đó, quyền kiểm soát sức khỏe của các quốc gia yếu hơn vẫn nằm trong tay một số ít người.
Tìm hiểu sâu hơn, bạn sẽ nhận ra rằng năm 2001, Microsoft đã bổ nhiệm Giám đốc Điều hành của Merck, Raymond Gilmartin, vào hội đồng quản trị. Gates và Gilmartin đã cùng nhau khởi động một quỹ vắc-xin, và nhà sáng lập Microsoft cũng đã hỗ trợ Merck trong một chương trình phòng chống AIDS ở Botswana.
Vâng, đột nhiên, hoạt động từ thiện không còn mang tính từ thiện nữa!
6.6 Ngọc trai trước khi có cúm lợn
Trước: 6.5 Dọa dẫm một cơn bão
Nếu chính phủ không chịu rút kinh nghiệm từ những sai lầm trong quá khứ, lịch sử đã dạy cho nhiều người dân những bài học quý giá. Dịch cúm lợn năm 2009 đã dẫn đến việc tiêm chủng bắt buộc và hàng loạt trên khắp Hoa Kỳ và Châu Âu, nhưng ngày càng có nhiều công dân sáng suốt sẵn sàng đứng lên bảo vệ quyền lợi của mình. Chìa khóa cho xu hướng đáng khích lệ này là tự giáo dục bản thân về những rủi ro và nguy hiểm của vắc-xin, đồng thời chung tay chống lại dịch bệnh.
Nhưng trước khi thảo luận về những ví dụ đáng khích lệ này, tôi muốn tập trung sự chú ý vào nước Đức và sự phẫn nộ của công chúng bùng lên do một thông báo được đưa ra trong 'đại dịch' cúm lợn.
Giữa lúc kêu gọi tiêm chủng hàng loạt ở Đức, một cuộc tranh cãi khác đang diễn ra trên chính trường quốc gia. Dường như Thủ tướng Đức Angela Merkel, các chính trị gia khác, quân nhân, quan chức và nhân viên của Viện Paul Ehrlich, một cơ quan nghiên cứu y khoa và vắc-xin hàng đầu, tỏ ra vượt trội hơn phần còn lại của dân chúng.
Sự phẫn nộ của công chúng bùng lên sau khi một tài liệu của Bộ Nội vụ bị rò rỉ, tiết lộ rằng họ đã đặt mua vắc-xin Celvapan của Baxter International cho Merkel và giới tinh hoa khác trong khi phần còn lại của dân chúng sẽ được tiêm vắc-xin Pandemrix do GlaxoSmithKline sản xuất.
Lý do: Pandemrix chứa một chất bổ trợ gọi là squalene, trong nhiều năm qua đã được chứng minh là có liên quan đến các bệnh thần kinh nghiêm trọng như bệnh đa xơ cứng, bệnh lupus và bệnh thận cũng như Hội chứng Chiến tranh vùng Vịnh khét tiếng, cùng nhiều hậu quả suy nhược khác.
Ngược lại, Celvapan, do công ty dược phẩm khổng lồ Bax-ter của Mỹ sản xuất, không chứa tá dược và có ít tác dụng phụ hơn.
Để xoa dịu cuộc tranh cãi, người phát ngôn của Merkel cuối cùng đã đưa ra tuyên bố công khai rằng nếu Thủ tướng Đức được tiêm vắc-xin, bà sẽ được tiêm một mũi Pandemrix.
Chính những tranh cãi như thế này đã xác nhận những nghi ngờ về động cơ của các chính phủ, và sự đạo đức giả trong hành lang quyền lực đã phơi bày sự đồng lõa của họ trong việc phạm tội ác chống lại loài người. Tuy nhiên, bị thúc đẩy, họ vẫn tiếp tục theo đuổi một chương trình nghị sự vụ lợi và gian dối, thường gây ra hậu quả chết người cho công chúng.
Nhưng điều đáng mừng là ngay cả khi người dân sợ hãi xếp hàng tại các trung tâm y tế công cộng, phòng cấp cứu bệnh viện và những nơi công cộng biến thành các phòng khám và trại tiêm chủng tạm thời để tiêm vắc-xin phòng cúm lợn hàng loạt vào năm 2009, thì các cuộc biểu tình cũng đang nổ ra.
Tại Đức, báo chí đưa tin về một "cuộc nổi loạn công khai" của các chuyên gia y tế và bác sĩ nhi khoa phản đối việc sử dụng vắc-xin cúm lợn độc hại. Tại Đan Mạch, nhân viên y tế và quan chức nhà nước đã từ chối tiêm vắc-xin, với lý do các triệu chứng của dịch bệnh nhẹ và không đáng để mạo hiểm mạng sống của họ.
Một cuộc thăm dò toàn quốc ở Phần Lan được thực hiện trước khi vắc-xin ra đời cho thấy 75% dân số sẽ từ chối tiêm chủng. Một làn sóng phản đối mạnh mẽ, nếu được tổ chức và tập trung vào những người đại diện cho người dân, có thể giúp đảo ngược một số luật lệ hà khắc của chúng ta.
>>Tiếp theo: 6.7 Cánh cửa dẫn đến diệt chủng?
6.5 Dọa dẫm một cơn bão
>>Trước: 6.4 Bạn đã từng "nghe" được điều này chưa?
Có vẻ như các nhà hoạch định chính sách sẽ không bao giờ rút ra bài học từ những sai lầm trong quá khứ. Điều này thường là cố ý. Tôi đang nói đến những nỗ lực tạo ra "dịch bệnh" và "đại dịch", vốn là những thị trường lớn nhất và béo bở nhất cho các nhà sản xuất vắc-xin. Các công ty dược phẩm không chỉ thu về hàng tỷ đô la từ việc bán vắc-xin, mà các nhà hoạch định chính sách và các quan chức y tế công cộng cấp cao cũng nhận được những khoản hối lộ khổng lồ để trao hợp đồng sản xuất vắc-xin trong những "trường hợp khẩn cấp" này. Với rủi ro cao như vậy, việc tạo ra sự hoảng loạn tập thể là cách nhanh nhất để kiếm hàng tỷ đô la với một cái cớ có vẻ hợp lý. Đáng tiếc là, điều này thường dẫn đến những hậu quả tai hại.
Một "cơn bão đại dịch" như vậy đã tấn công người dân Mỹ vào năm 1976, trong cái mà sau này được gọi là "thảm họa cúm lợn năm 1976". Được gọi chính thức là Chương trình Tiêm chủng Cúm quốc gia, đây là một chiến dịch tiêm chủng hàng loạt thảm họa, được cho là đã khiến Tổng thống Gerald Ford mất chức và Giám đốc CDC mất việc.
Ba năm sau, vào năm 1979, nhờ một tin giật gân của đài truyền hình CBS, công chúng Mỹ đã biết được sự thật gây sốc đằng sau chương trình tiêm chủng hàng loạt. Nhưng đến lúc đó, 46 triệu người Mỹ đã được tiêm loại vắc-xin nói trên, 25 người đã tử vong vì nó và 500 người Mỹ mắc Hội chứng Guillain-Barré, một căn bệnh thần kinh khiến nạn nhân bị liệt.
Thảm họa bắt đầu vào tháng 2 năm 1976, khi một tân binh Lục quân tại Fort Dix ở New Jersey bị ốm, ngã quỵ và tử vong tại cơ sở quân đội. Vài ngày sau, một số đồng nghiệp của anh ta cũng xuất hiện các triệu chứng tương tự nhưng đã hồi phục. Tiếp theo, hai trường hợp tương tự được báo cáo ở Virginia. Cả hai đều đã hồi phục. Nhưng điều này đã đủ để khiến CDC phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp sự bùng phát của 'cúm lợn'.
Kết luận của CDC, đơn vị đã xử lý mẫu bệnh phẩm từ cổ họng của tân binh đã tử vong cũng như những người khác sau đó bị ốm, là tất cả họ đều bị nhiễm một loại vi-rút 'giống cúm lợn'.
Một tháng sau, vào tháng 3 năm 1976, người đứng đầu tất cả các cơ quan y tế công cộng do Giám đốc CDC, Tiến sĩ David Sencer đứng đầu đã gần như ép buộc Tổng thống Ford phải phê duyệt một chương trình tiêm chủng hàng loạt trên khắp Hoa Kỳ.
Chiến dịch này, trong đó Tổng thống tuyên bố rằng mọi "đàn ông, phụ nữ và trẻ em" đều phải được tiêm chủng, đã khiến người nộp thuế ở Mỹ phải trả không dưới 137 triệu đô la, số tiền này đã đi thẳng vào kho bạc của các công ty dược phẩm và chắc chắn là của những người trong chính phủ bảo trợ cho họ.
Tuy nhiên, chương trình, bắt đầu vào đầu tháng 10, đã bị hủy bỏ 10 tuần sau đó do phản ứng dữ dội của công chúng. Nguyên nhân là do chỉ vài ngày sau khi triển khai, các trường hợp mắc Hội chứng Guillain-Barré bắt đầu xuất hiện. Dường như vắc-xin đã gây ra tình trạng thần kinh hiếm gặp này. Đến thời điểm đó, 25% dân số Mỹ đã được tiêm chủng. Nhưng một sự thật sâu xa hơn vẫn chưa được tiết lộ. Trong một cuộc phỏng vấn năm 1979 với CBS, kênh truyền hình này đã nói chuyện với Tiến sĩ Michael Hattwick, người đã chỉ đạo nhóm giám sát chương trình tiêm chủng đại trà cúm lợn trong ba năm trước đó.
Trong cuộc phỏng vấn, Tiến sĩ Hattwick đã tiết lộ một điều đáng lên án: ông đã cảnh báo những người dẫn đầu chiến dịch rằng vắc-xin có nguy cơ gây ra biến chứng thần kinh.
Sau khi ban đầu phủ nhận rằng Tiến sĩ Hattwick đã cảnh báo trước cho họ nhưng lại đối mặt với bằng chứng tài liệu cho thấy CDC thực sự nhận thức được những hậu quả này, Tiến sĩ Sencer cho biết "cộng đồng khoa học đồng thuận rằng bằng chứng liên quan đến các rối loạn thần kinh với việc tiêm phòng cúm là như vậy nên họ không cảm thấy mối liên hệ này là có thật".
Và như vậy, giám đốc CDC, một trong những người được coi là trụ cột của sức khỏe cộng đồng Hoa Kỳ, đã dễ dàng viết bia mộ cho ít nhất 25 công dân và đẩy ít nhất 500 người khác vào cuộc sống tàn tật.
Hậu quả của thảm họa năm 1976, chính phủ liên bang Hoa Kỳ vẫn đang phải chi trả hàng tỷ đô la tiền bồi thường thiệt hại - một lần nữa là tiền thuế có giá trị - cho các nạn nhân và gia đình của họ, những người đã kiện chính phủ.
>>Tiếp: 6.6 Ngọc trai trước khi có cúm lợn
6.4 Bạn đã từng "nghe" được điều này chưa?
>>Trước: 6.3 Luật về tiêm chủng bắt buộc
Có một số câu hỏi về đạo đức nảy sinh từ việc tiêm chủng bắt buộc
Ngoại trừ việc điều đó hoàn toàn sai trái. Trong phần này, chúng ta sẽ thảo luận một số vấn đề cốt lõi mà hầu hết mọi người thường bỏ qua, do những lời đồn thổi do các nhà sản xuất vắc-xin thông đồng với các nhà hoạch định chính sách tạo ra.
Bây giờ, câu hỏi ở đây là: Nếu vắc-xin thực sự hiệu quả như các công ty dược phẩm quảng cáo, tại sao chúng ta phải lo sợ về một đại dịch hoặc sự bùng phát của một căn bệnh mà phần lớn dân số đã được tiêm chủng?
Suy cho cùng, các nhà sản xuất vắc-xin tuyên bố rằng tiêm chủng mang lại khả năng bảo vệ 95% cho một nhóm dân số được tiêm chủng đầy đủ. Điều này ngụ ý rằng 5% dân số đã tiêm chủng đã gặp phải tình trạng thất bại với vắc-xin.
Trên thực tế, con số này cao hơn nhiều so với mức thất bại 5 phần trăm được ngụ ý
Mặc dù các nhà sản xuất thuốc sẽ không bao giờ thừa nhận điều này, ít nhất là không trực tiếp thừa nhận. Trong đợt bùng phát dịch ho gà nhanh chóng ở California năm 2010, các cơ quan y tế đã khuyến khích người dân tiêm vắc-xin tái chủng. Tại sao người dân cần tiêm vắc-xin tái chủng nếu họ đã có miễn dịch từ mũi tiêm trước? Liệu tiêm chủng hai lần có tốt hơn tiêm chủng một lần không? Điều này chẳng phải ngụ ý rằng vắc-xin không hiệu quả sao? Do đó, câu hỏi được đặt ra: làm sao chính phủ có thể ép buộc người dân tiêm vắc-xin khi họ biết rằng rất có thể thuốc sẽ không hiệu quả?
Còn có một sai lầm nghiêm trọng khác mà các nhà sản xuất vắc-xin sử dụng để thúc đẩy chương trình nghị sự của họ đối với một bộ phận dân số không hề hay biết: đó là "miễn dịch cộng đồng".
Lật ngược lại tuyên bố trước đó về khả năng miễn dịch 95 phần trăm và nội dung sẽ như sau: Nếu 95 phần trăm dân số được tiêm vắc-xin phòng một căn bệnh, thì dân số đó sẽ được bảo vệ khỏi căn bệnh đó.
Vấn đề với lập luận này là nó hoạt động dựa trên miễn dịch tự nhiên, chứ không phải "miễn dịch" nhân tạo. Điều này có nghĩa là 95% dân số phải tiếp xúc với một căn bệnh, và một số người trong số họ mắc bệnh, thì 95% còn lại mới có được miễn dịch tự nhiên. Do đó, việc tiêm chủng nhân tạo cho toàn bộ dân số sẽ không mang lại hiệu quả bảo vệ như đã hứa.
Như đã thảo luận trong Chương 1 về Huyền thoại Vắc-xin, miễn dịch tự nhiên thực sự mang lại khả năng miễn dịch suốt đời, trong khi vắc-xin thì không. Sau này, chính các công ty dược phẩm đã phát hiện ra - và cố gắng che giấu sự thật - rằng khả năng miễn dịch do vắc-xin tạo ra (được đo bằng sự hiện diện của kháng thể, vốn không đủ để bảo vệ chống lại bệnh tật), thường kéo dài khoảng một thập kỷ, và đôi khi chỉ trong hai năm, tùy thuộc vào loại vắc-xin.
Vậy nên họ đã phát minh ra vắc-xin "tăng cường", cái tên ám chỉ rằng loại vắc-xin độc hại này đã "tăng cường" vắc-xin gốc. Thực tế, vắc-xin tăng cường chẳng qua chỉ là một liều vắc-xin khác của cùng một loại. Do đó, nếu bạn tiêm "vắc-xin tăng cường", thực chất bạn đang được tiêm vắc-xin phòng ngừa cùng một căn bệnh hai lần!
Tiếp theo, một tiết lộ khác cho các công ty dược phẩm - ngay cả mũi tiêm tăng cường cũng không mang lại khả năng miễn dịch "trọn đời"! Thiên nhiên đã đánh bại ngay cả những bộ óc y khoa xuất sắc nhất trong trò chơi của chính họ. Vì vậy, để che đậy sự thiếu sót của mình, các nhà sản xuất vắc-xin đã tẩy não công chúng, khiến họ tin rằng một phần của lịch tiêm chủng bao gồm việc tiêm chủng khi bạn đã trưởng thành.
Không có gì ngạc nhiên khi không chỉ các trường học mà cả các trường cao đẳng cũng yêu cầu ứng viên phải tiêm mũi tăng cường phòng ngừa một số bệnh nhất định, ngay cả những bệnh đơn giản thời thơ ấu như sởi, thủy đậu và quai bị. Cũng giống như trường học, sinh viên đại học là một nhóm dân số bị giam cầm khác đảm bảo một thị trường sẵn sàng cho các nhà sản xuất vắc-xin.
Còn một hệ quả nữa của việc vắc-xin thất bại, bác bỏ lập luận của những người ủng hộ tiêm chủng. Nếu vắc-xin không cung cấp miễn dịch suốt đời và nếu tỷ lệ thất bại cao đáng kể, thì một tỷ lệ lớn dân số, đặc biệt là những người đã được tiêm chủng khoảng 50 năm trước, hẳn phải đang sống mà không có sự bảo vệ như mong đợi!
Chẳng phải điều đó sẽ khiến ít nhất một nửa dân số Mỹ dễ mắc các bệnh truyền nhiễm chết người về mặt y tế sao? Vậy thì tại sao chúng ta chưa từng trải qua một đại dịch nào trong một thời gian dài như vậy? Chúng ta sẽ thảo luận về lý do tại sao đợt bùng phát cúm lợn năm 2009 không đủ điều kiện cho lập luận này trong Chương 7: Cúm lợn - Đại dịch không thành công.
>>Tiếp: 6.5 Dọa dẫm một cơn bão
6.3 Luật về tiêm chủng bắt buộc
>>Trước: 6.2 Tiêm chủng bắt buộc
Nếu luật pháp không gây nhầm lẫn và đôi khi thậm chí có vẻ mâu thuẫn, thì đợt bùng phát cúm lợn năm 2009 và sự hoảng loạn hàng loạt bùng phát trong 'đại dịch' này đã khiến tình hình trở nên phức tạp hơn.
Một tiểu bang cụ thể - Massachusetts đã trở thành tâm điểm chú ý vì Đạo luật ứng phó đại dịch, cho phép thống đốc ban bố tình trạng khẩn cấp và coi thường dân thường là nghi phạm khủng bố nếu họ không chấp nhận tiêm chủng bắt buộc.
Bất chấp sự phản đối kịch liệt từ các nhóm tự do dân sự, diễn đàn phụ huynh, luật sư, nhóm người tiêu dùng và những công dân quan tâm và sáng suốt khác, Hạ viện vào tháng 8 năm 2009 đã thông qua dự luật này một cách nồng nhiệt.
Chưa bao giờ có tiểu bang nào của Mỹ cho phép cảnh sát can thiệp vào việc chăm sóc sức khỏe và tiêm chủng. Luật này cho phép một cách vô lý
Cảnh sát được phép xông vào nhà dân mà không có lệnh, cách ly người dân, đưa trẻ em ra khỏi nhà và tiêm chủng cho chúng trái với ý muốn của chính các em và cha mẹ các em, và trao cho thống đốc bang quyền áp đặt thiết quân luật. Tất nhiên, những người dân thường chống lại bất kỳ nỗ lực nào như vậy "vì lợi ích sức khỏe cộng đồng" có thể bị bỏ tù mà không cần buộc tội hay xét xử.
Về mặt pháp lý, khi tình trạng đại dịch được ban bố, người dân dường như không có lựa chọn nào khác ngoài việc tuân thủ Nhà nước hoặc đối mặt với các cáo buộc hình sự. Và Nhà nước, như thể đang tuân theo mệnh lệnh của WHO, tổ chức có 194 quốc gia ký kết. Điều này có nghĩa là dân số của 194 quốc gia có khả năng phải chịu các biện pháp như đã được áp dụng ở Massachusetts nếu chính phủ các nước này quyết định như vậy!
Những biện pháp khó hiểu này - được nhiều người gọi là "chiến thuật Gestapo" - đã làm dấy lên cuộc tranh luận về cách người dân có thể ứng phó khi đối mặt với sự chuyên quyền như vậy. Nhiều người lớn, phụ huynh và những người khác đã thành lập các diễn đàn để trình bày quan điểm chống tiêm chủng với các đại diện của tiểu bang, với hy vọng rằng các biện pháp thuyết phục sẽ thuyết phục được các đại diện chính trị của họ không sử dụng các chiến thuật cưỡng chế đối với người dân.
Tuy nhiên, đây là một nhiệm vụ khó khăn khi nhìn nhận tiêm chủng hàng loạt dưới góc nhìn lịch sử. Luật ủng hộ tiêm chủng hàng loạt và tiêm chủng bắt buộc đã có từ thế kỷ 19, khi bệnh đậu mùa hoành hành (Xem Chương 2: Những sai lầm trong lịch sử). Điều này đã gây ra phản ứng dữ dội ngay từ thời điểm đó, với việc một số tiểu bang quyết định bãi bỏ những luật lệ nghiêm ngặt này.
Bước sang thế kỷ 19, một vụ án mang tính bước ngoặt đã trở thành nền tảng cho tất cả các luật y tế công cộng tại Hoa Kỳ - vụ Jacobson kiện Massa-chusetts. Năm 1905, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã bác bỏ đơn kháng cáo cho rằng việc tiêm chủng bắt buộc vi phạm quyền tự chăm sóc sức khỏe của mỗi công dân. Tòa án đã bác bỏ quyền của nguyên đơn vì lợi ích sức khỏe cộng đồng. Do đó, tòa án đã đặt ra khuôn khổ cho luật tiêm chủng của tiểu bang, và kể từ đó, chính quyền Liên bang đã trao cho mỗi tiểu bang quyền ban hành và thực thi luật tiêm chủng riêng của mình.
Tuy nhiên, Tòa án Tối cao luôn ưu tiên ủng hộ các tiểu bang trong nhiều vụ kiện chống lại việc tiêm chủng bắt buộc, khiến cho vụ việc của người dân càng thêm khó khăn. Hơn nữa, mỗi tiểu bang thường tuân theo hướng dẫn của chính quyền liên bang, mà chính quyền liên bang lại tuân theo chương trình nghị sự của CDC, vốn được biết là thiên vị các công ty dược phẩm. Đây thực sự là một vòng luẩn quẩn.
Những năm 1960 đã mở ra những biện pháp kiểm soát pháp lý thậm chí còn nghiêm ngặt hơn, nhờ vào các đợt bùng phát bệnh sởi lan rộng. Sau đó, không còn ai ngoảnh lại phía sau nữa. Các nhà sản xuất vắc-xin liên tục sản xuất ra những loại vắc-xin ngày càng mới hơn, và bề ngoài là vắc-xin phòng ngừa ngày càng nhiều bệnh tật.
Và rồi sự thật đã xảy ra. Các nhà sản xuất vắc-xin đã tìm thấy một thị trường mục tiêu cho các công thức độc hại của họ - trẻ em. Bằng cách gieo rắc nỗi sợ hãi vào tâm trí những bậc phụ huynh lo lắng và thiếu hiểu biết, họ cùng với các nhà hoạch định chính sách bắt đầu đưa sản phẩm của mình vào chương trình giảng dạy của trường học, bắt đầu từ trường mẫu giáo! Không có gì ngạc nhiên khi số lượng vắc-xin bắt buộc tiêm chủng cho trẻ sơ sinh và trẻ em đã tăng lên theo thời gian.
Mỗi tiểu bang đều có luật tiêm chủng riêng về loại vắc-xin cần tiêm và độ tuổi cũng như giai đoạn tiêm chủng của trẻ em trong độ tuổi đi học. Và không có cách nào thoát khỏi mối đe dọa cộng đồng này trừ khi bạn chọn không tham gia hệ thống tiêm chủng.
Thực tế là những bậc phụ huynh từ chối tiêm chủng cho con em mình sẽ bị buộc phải cho con nghỉ học. Mặt khác, những bậc phụ huynh không cho con em mình đến trường là vi phạm luật trốn học của tiểu bang!
Nhưng mỗi công dân đều có những quyền nhất định, ngay cả khi bị ép tiêm chủng. Thực tế, có những quy tắc và quy định nhất định mà các cơ quan y tế công cộng phải tuân thủ, một lần nữa trong khuôn khổ pháp luật.
Quyền được Đồng ý Có Thông tin: Không công dân nào có thể bị ép buộc tiêm chủng. Người đó phải được thông báo về những rủi ro, biến chứng và tác dụng phụ có thể xảy ra liên quan đến vắc-xin và các tài liệu tư vấn khác mà các cơ quan y tế như CDC hoặc FDA đã công bố. Thông tin này phải được cung cấp cho cá nhân trước khi tiêm bất kỳ loại vắc-xin nào.
Quyền được thông báo đồng ý bắt nguồn từ Đạo luật quốc gia về thương tích do vắc-xin ở trẻ em năm 1986, yêu cầu tất cả bác sĩ và các nhà cung cấp vắc-xin khác phải cung cấp cho cha mẹ thông tin bằng văn bản về vắc-xin trước khi tiêm vắc-xin cho con họ.
Chính quyền này đã bị tước đoạt một cách tinh vi trong trường hợp các chiến dịch tiêm chủng đại trà cho học sinh. Những chiêu trò gieo rắc nỗi sợ hãi, sự hoảng loạn tập thể và các chiến thuật cưỡng ép tâm lý mà những kẻ nắm quyền áp dụng gần như khiến người dân "đồng ý" tiêm chủng. Trong những trường hợp này, người dân sẽ không tìm hiểu về vắc-xin; họ sẽ có xu hướng "tự bảo vệ mình".
Miễn trừ: Tất cả 50 tiểu bang của Hoa Kỳ đều yêu cầu trẻ em muốn nhập học vào các cấp học khác nhau ở trường phổ thông và cao đẳng phải tiêm chủng theo lịch trình.
Mặc dù số lượng và loại vắc-xin khác nhau tùy theo từng tiểu bang, tất cả các cơ sở giáo dục được cấp phép của tiểu bang đều có quy định tiêm chủng nghiêm ngặt.
Nhưng bạn có biết rằng cha mẹ có thể từ chối tiêm chủng bắt buộc vì lý do y tế không? Ví dụ, nếu con bạn có tiền sử phản ứng bất lợi với các lần tiêm chủng trước đó, bạn có thể xin miễn tiêm chủng tiếp theo vì lý do y tế.
Mỗi tiểu bang có yêu cầu khác nhau đối với người nộp đơn. Trong khi một số tiểu bang chấp nhận thư viết tay đơn giản từ bác sĩ gia đình nêu rõ lý do miễn trừ y tế, những tiểu bang khác có quyền xem xét khuyến nghị và thậm chí bác bỏ nó.
Căn cứ thứ hai để được miễn trừ là tôn giáo, vì một số tín ngưỡng không cho phép tiêm chủng hoặc bất kỳ hình thức điều trị y tế xâm lấn nào. Trong khi một số tiểu bang chỉ định nghĩa khái quát thuật ngữ "tín ngưỡng tôn giáo", những tiểu bang khác lại yêu cầu người nộp đơn phải là thành viên của một nhóm tôn giáo cụ thể. Một lần nữa, trong khi một số tiểu bang yêu cầu thư giới thiệu từ người đại diện tinh thần của người nộp đơn, những tiểu bang khác lại khắt khe hơn và yêu cầu phải có bản tuyên thệ.
Việc miễn trừ tiêm chủng dựa trên cơ sở tôn giáo bắt nguồn từ Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ, quy định mọi công dân đều có quyền tự do thực hành tôn giáo của mình. Để tước bỏ quyền này và áp đặt tiêm chủng, nhà nước phải chứng minh được "lợi ích quốc gia cấp thiết", có thể là sự lây lan của các bệnh truyền nhiễm.
Điều thú vị là, các nhóm tôn giáo như người Amish, những người thực hiện quyền hiến định này, lại không cho phép tiêm chủng trong cộng đồng của họ và không có bệnh truyền nhiễm hay trẻ em mắc chứng tự kỷ. Điều này rất hợp lý với tôi. Bản thân tôi chưa bao giờ được tiêm vắc-xin, nhờ bản năng bảo vệ tuyệt vời của mẹ tôi. Tôi đã không đi khám bác sĩ trong 38 năm, mặc dù hệ miễn dịch của tôi rất khỏe mạnh, và tôi chưa bao giờ bị cúm trong nhiều thập kỷ.
Loại miễn trừ thứ ba là miễn trừ về mặt triết học, là niềm tin cá nhân của một cá nhân ngăn cản người đó tiêm vắc-xin.
Đây là loại miễn trừ mang tính chủ quan nhất trong ba loại miễn trừ, nhưng hãy để tôi minh họa điều gì sẽ xảy ra khi các bậc phụ huynh cùng nhau nỗ lực kiên quyết và có tổ chức để đấu tranh cho quyền lợi của mình. Có thể đã mất bảy năm dài ở Texas và hai năm ở Arkansas, nhưng cuối cùng công dân ở cả hai tiểu bang này đã giành được quyền hợp pháp để thực hiện các miễn trừ tiêm chủng dựa trên lương tâm, triết học hoặc niềm tin tôn giáo.
Bực tức vì chiến thắng khó khăn này, các nhà lập pháp tiểu bang đang chịu áp lực ngày càng tăng từ các cơ quan y tế liên bang nhằm thu hồi quyền miễn trừ. Tính đến năm 2010, 48 trong số 50 tiểu bang Hoa Kỳ cho phép miễn trừ vì lý do tôn giáo, trong khi 18 tiểu bang cho phép miễn trừ vì lý do cá nhân, triết học hoặc lương tâm.
Tất nhiên, nói thì dễ hơn làm, vì cha mẹ phải tuân thủ vô số thủ tục để xin miễn trừ, chứ chưa nói đến việc được chấp thuận. Không có gì ngạc nhiên khi ngày càng nhiều người dân tìm đến hình thức này để tránh bị ép tiêm chủng. Cũng không có gì ngạc nhiên khi việc xin miễn trừ ngày càng trở nên khó khăn, ngay cả trên cơ sở y tế và tôn giáo.
Dù nhìn nhận theo cách nào, việc tự tìm hiểu về tiêm chủng là bước đầu tiên để ngăn chặn nhà nước xâm phạm cơ thể bạn. Như đã đề cập trước đó, tất cả các tiểu bang đều có luật tiêm chủng, nhưng chúng khác nhau tùy theo từng tiểu bang. Hãy tìm hiểu về luật pháp liên quan đến tiểu bang của bạn để bạn có thể đưa ra lựa chọn sáng suốt cho bản thân và gia đình. Khi ngày càng nhiều người nhận thức được tác hại của y học thông thường, có rất nhiều diễn đàn và nhóm vận động đang tập hợp để khẳng định quyền công dân. Tham gia một trong những diễn đàn này có thể là một ý tưởng hay.
Dưới đây là một ví dụ về những gì chỉ cần dành vài phút tìm kiếm trên Internet có thể tiết lộ. Ví dụ, chỉ cần tìm kiếm đơn giản, bạn sẽ thấy rằng mặc dù Viện Hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ và CDC khuyến nghị nên tiêm vắc-xin MMR (sởi, quai bị, rubella) cho tất cả trẻ em, nhưng luật pháp ở tiểu bang của bạn có thể chỉ yêu cầu trẻ em tiêm vắc-xin phòng sởi và rubella.
Tiêm chủng đang ngày càng trở nên phổ biến trong nhiều khía cạnh của cuộc sống và có thể ảnh hưởng đến những lựa chọn và quyết định quan trọng trong vấn đề nhận con nuôi, thỏa thuận quyền nuôi con trong quá trình ly hôn, điều kiện tham gia bảo hiểm y tế và các chương trình của chính phủ, chăm sóc y tế và nhập cư.
Trong một xu hướng đáng lo ngại, minh họa rõ hơn sự kìm kẹp của Big Pharma đối với chính phủ và giới y khoa, các bác sĩ nhi khoa đã bắt đầu từ chối cung cấp dịch vụ điều trị y tế cho trẻ em chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về tiêm chủng theo luật định.
Đã có những trường hợp bệnh viện thậm chí còn báo cáo phụ huynh lên các cơ quan dịch vụ xã hội trẻ em vì họ không hoặc từ chối tiêm vắc-xin cho con. Dù điều này có vẻ vô lý, nhưng đó là sự thật cay đắng. Vì vậy, việc tìm hiểu luật pháp là điều cấp thiết hơn bao giờ hết.
Binh lính: Quân nhân, đặc biệt là tân binh, là đối tượng thử nghiệm ưa thích của các nhà sản xuất vắc-xin trong các chương trình tiêm chủng hàng loạt. Quân đội phải tiêm chủng đủ loại vắc-xin để sẵn sàng chiến đấu. Cả nam lẫn nữ đều không có lựa chọn nào khác ngoài việc chịu đựng vô số mũi tiêm được thiết kế để "bảo vệ" họ khỏi các độc tố sinh học như đậu mùa, bệnh than, chất ricin và các bệnh khác.
Một số binh sĩ đã tử vong vì những hóa chất thường chưa được thử nghiệm trong các loại vắc-xin thử nghiệm này, và một số khác bị bệnh nặng do chúng. Cũng giống như những phụ nữ tham gia vào các nghiên cứu siêu âm không tự nguyện, binh lính đã trở thành vật thí nghiệm trong các nghiên cứu thuốc quy mô lớn. Nếu không thì ngành công nghiệp dược phẩm còn có thể thử nghiệm thuốc độc trên người một cách hợp pháp bằng cách nào?
Thật không may, khi bạn ở trong quân đội, bạn có rất ít quyền công dân. Do đó, binh lính không có quyền từ chối tiêm chủng. Những người từ chối tiêm chủng sẽ phải đối mặt với tòa án quân sự và án tù, hoặc ít nhất là bị xuất ngũ trong danh dự.
Các tác dụng phụ thường gặp của hơn một triệu mũi tiêm chủng cho binh lính Hoa Kỳ cho đến nay bao gồm đau khớp, mệt mỏi cực độ và mất trí nhớ. Vắc-xin phòng bệnh than được tiêm cho các cựu chiến binh Chiến tranh Vùng Vịnh trong cuộc chiến tranh Trung Đông năm 1992 là một ví dụ như vậy. (Xem Chương 3: Có Âm mưu nào không?).
Tuy nhiên, các trường hợp miễn trừ y tế và tôn giáo vẫn được chấp nhận, nhưng phải xin miễn trừ trước khi nhập ngũ. Một khi tân binh nhập ngũ, anh ta/cô ta gần như đã ký giao nộp cơ thể mình cho Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, vốn đã nhiều lần bị cáo buộc về các hoạt động thí nghiệm trên người.
>>Tiếp: 6.4 Bạn đã từng "nghe" được điều này chưa?
6.2 Tiêm chủng bắt buộc
>>Trước: 6.1 WHO quyết định sức khỏe của bạn?
Tôi sẽ trình bày một số trường hợp tiêm chủng bắt buộc để chỉ ra cách chính phủ dễ dàng chà đạp lên quyền tự do dân sự và đình chỉ các quyền hiến định để giành quyền kiểm soát ý chí của công dân.
Maryland: Bạn còn nhớ sự phẫn nộ của cả nước khi một tòa án ở Maryland (Hoa Kỳ) gửi lệnh triệu tập tới 1.600 phụ huynh ở Quận Price George, nơi trẻ em không được tiêm chủng đầy đủ không?
Theo lệnh của tòa án, do Văn phòng Tổng Chưởng lý tiểu bang ban hành vào tháng 11 năm 2007, các bậc phụ huynh và con cái của họ bị dồn vào khuôn viên tòa án và bị buộc phải xếp hàng, trong một số trường hợp, để được tiêm tới 17 liều vắc-xin. Những bậc phụ huynh từ chối tiêm vắc-xin cho con tại tòa có thể phải đối mặt với án tù lên đến 30 ngày và phạt 50 đô la cho mỗi ngày "từ chối hợp tác".
Sự phẫn nộ càng gia tăng do tiêu chuẩn kép của những người thực thi pháp luật: Chính luật sư của tiểu bang đã từ chối tiêm vắc-xin phòng viêm gan B cho con mình, một trong những loại vắc-xin gây tranh cãi nhất hiện có trên thị trường.
Sự vi phạm trắng trợn quyền công dân này xuất phát từ một lá thư do hội đồng nhà trường viết, trong đó phát hiện ra rằng hồ sơ y tế của hơn 2.300 trẻ em không tuân thủ các yêu cầu của tiểu bang về tiêm chủng.
Cách thức mà các bậc cha mẹ bị ép buộc tiêm vắc-xin cho con cái họ hàng loạt, gần như dưới họng súng, đã vi phạm trắng trợn quyền được đồng ý một cách có hiểu biết của cha mẹ. (Điều này phần nào tương tự như Quyền im lặng của Mi-randa Escobedo được đọc cho các cá nhân tại thời điểm bị bắt.)
Tôi nói điều này vì trẻ em không thể được tiêm chủng bừa bãi và trước khi tiêm chủng, bác sĩ có nghĩa vụ phải hỏi về tiền sử bệnh tật, các lần tiêm chủng trước đó của từng trẻ, thông báo cho cha mẹ về các tác dụng phụ có thể xảy ra và hướng dẫn họ cách theo dõi con cái sau khi tiêm chủng. Hành động đe dọa có chủ đích này của chính quyền Maryland là vô lương tâm.
Vâng, còn một số điều nữa. Sự thật gây sốc về chiến dịch tiêm chủng bắt buộc ở Maryland là nó được thúc đẩy bởi tiền mặt. Một số phụ huynh, những người đã cố gắng đào sâu vấn đề, phát hiện ra rằng với 2.300 trẻ em bị cấm đến trường vì không tuân thủ tiêm chủng bắt buộc, Hội đồng Học khu có nguy cơ mất nguồn tài trợ từ liên bang, tiểu bang và các nguồn khác lên tới 63 đô la cho mỗi trẻ em mỗi ngày. Hãy tính toán và bạn sẽ thấy một con số khổng lồ. Rõ ràng, chính quyền Maryland - cả hội đồng nhà trường, tòa án hay cơ quan y tế - đều không quan tâm đến sức khỏe của trẻ em!
New Jersey: Maryland không phải là tiểu bang duy nhất của Hoa Kỳ bắt buộc tiêm chủng cho trẻ em trong độ tuổi đi học. Một đề xuất do Hội đồng Y tế Công cộng New Jersey soạn thảo đã có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, đưa New Jersey trở thành tiểu bang đầu tiên yêu cầu trẻ mới biết đi muốn theo học tại các trường mầm non và nhà trẻ được cấp phép phải được tiêm phòng cúm và viêm phổi, trong khi trẻ em dưới năm tuổi phải tiêm phòng viêm màng não và tiêm nhắc lại DTaP.
Vài tháng sau, vào tháng 8 năm 2009, một tòa án liên bang Hoa Kỳ đã ban hành lệnh tạm dừng việc tiêm vắc-xin cúm bắt buộc ở New Jersey và mọi tiểu bang khác của Hoa Kỳ. Theo phán quyết, bất kỳ công dân nào từ chối tiêm vắc-xin cúm đều không bị từ chối bất kỳ dịch vụ hoặc quyền Hiến định nào.
Texas: Với việc chính quyền liên bang đưa việc tiêm chủng vào phạm vi điều chỉnh của Đạo luật Patriot, dường như các quyền hiến định có thể được diễn giải rộng rãi ở Hoa Kỳ. Học tập kinh nghiệm từ các tiểu bang Maryland và New Jersey, Texas, nơi Bộ Y tế đã ra lệnh tiêm chủng bổ sung cho học sinh vào tháng 4 năm 2009.
Lịch trình mới yêu cầu trẻ em muốn vào lớp bảy phải tiêm thêm một mũi vắc-xin phòng viêm màng não và một mũi vắc-xin phòng uốn ván, ngoài ra còn có tác dụng phòng bệnh ho gà.
Trẻ em muốn vào mẫu giáo sẽ phải tiêm vắc-xin ngừa thủy đậu nếu chưa được tiêm mũi thứ hai của vắc-xin hai mũi, hoặc nếu chưa từng bị thủy đậu. Trẻ cũng cần được tiêm vắc-xin viêm gan A và tiêm hai mũi vắc-xin MMR.
Theo Sở Y tế tiểu bang, việc tăng cường tiêm chủng sẽ "loại bỏ hiệu quả các bệnh tật trong trường học". Có nghĩa là 345.000 trẻ em trong độ tuổi đi học sẽ phải tiếp nhận một lượng lớn DNA lạ, RNA lạ, mô thai nhi và thủy ngân, những chất này có thể làm suy yếu hệ thống miễn dịch của trẻ hoặc khiến trẻ có nguy cơ mắc các bệnh khác khi lớn lên.
Những gì xảy ra ở Texas không phải là điều bất thường. Phụ huynh thường bị "ép" tiêm chủng cho con cái trước khi chúng có cơ hội tìm hiểu về những nguy cơ tiềm ẩn của việc tiêm chủng và trước khi họ kịp cùng nhau phản đối.
Hàng loạt email và thư từ nhà trường và các cơ quan y tế, các "trại tiêm chủng" được tổ chức vội vã trong khuôn viên trường, và những lời thuyết phục liên tục từ các nhóm như Đối tác Tiêm chủng Khu vực Houston đã thúc giục phụ huynh đưa con em mình xếp hàng tiêm chủng. Sự hối hả và nhộn nhịp này không chừa chỗ cho phụ huynh thực hiện Quyền Đồng ý Có Thông tin của mình, một vấn đề mà tôi sẽ thảo luận sau trong chương này.
Những bà mẹ gặp nguy hiểm: Vào tháng 10 năm 2008, Trung tâm Quốc gia về Tiêm chủng và Bệnh hô hấp, trực thuộc CDC, đã đưa ra một khuyến nghị nữa trong số rất nhiều khuyến nghị của mình. Khuyến nghị này nhắm đến những phụ nữ vừa sinh con. Theo khuyến nghị, phụ nữ trong nhóm này, cũng như phụ nữ vị thành niên trong độ tuổi sinh đẻ, nên tiêm vắc-xin DTaP trước khi sử dụng biện pháp tránh thai để giảm nguy cơ mắc bệnh ho gà hoặc ho gà trong thai kỳ.
Vắc-xin DTaP là một hỗn hợp hóa học bề ngoài có tác dụng bảo vệ chống lại uốn ván, bạch hầu và ho gà, tất cả đều có thể gây tử vong cho trẻ sơ sinh và người lớn có hệ miễn dịch suy yếu. Cho đến nay, khuyến nghị này nghe có vẻ giống như một trong nhiều khuyến nghị thường lệ của CDC. Nhưng điều đáng báo động là một bệnh viện ở Nam Mississippi, Forrest General, gần như bắt các bà mẹ mới sinh phải tiêm vắc-xin DTaP trước khi xuất viện.
Tôi đề cập đến điều này như một ví dụ về việc quyền công dân một lần nữa bị các cơ quan y tế xâm phạm. Đây không phải là trường hợp tiêm chủng bắt buộc mà là một ví dụ về việc gieo rắc nỗi sợ hãi có thể ép buộc những người vô tội nói "có".
Phụ nữ vừa sinh con thường dễ bị tổn thương và dễ bị thao túng hơn. Do đó, khả năng những phụ nữ này đồng ý tiêm vắc-xin, đặc biệt là khi y tá và bác sĩ nói rằng đó là khuyến nghị của CDC, cao hơn nhiều.
Phụ nữ trong những tình huống như vậy cần lưu ý rằng một số bệnh viện, vì muốn tăng doanh thu nhanh chóng, sẽ hành động theo chỉ đạo của các công ty dược phẩm và nhà sản xuất vắc-xin, và sẽ không ngần ngại gây nguy hiểm cho sức khỏe của bệnh nhân. Vấn đề là bạn phải cảnh giác và đề phòng những kẻ quảng cáo vắc-xin ngay cả khi mặc áo khoác trắng!
Luật Di trú: Các nhà sản xuất vắc-xin luôn tìm kiếm quần thể động vật nuôi nhốt. Suy cho cùng, đó là một thị trường sẵn có. Trong khi quảng bá vắc-xin viêm gan B gây nhiều tranh cãi Gardasil, Merck & Co ban đầu nhắm vào các trường học. Điều này đã gây ra một cơn bão ở Texas vào năm 2007, khi Thống đốc Rick Perry (Xem Chương 3: Có phải có âm mưu không?) đã yêu cầu mọi nữ sinh lớp sáu phải tiêm vắc-xin phòng ngừa vi-rút gây u nhú ở người (HPV) bằng Gardasil để ngăn ngừa ung thư cổ tử cung.
Không màng đến những tranh cãi, Merck & Co vẫn tiếp tục khuyến nghị sử dụng vắc-xin của mình cho các bé trai để phòng ngừa mụn cóc sinh dục. FDA cuối cùng đã phê duyệt mục đích này vào tháng 10 năm 2009, mặc dù nhà sản xuất vắc-xin này đã thu về hàng tỷ đô la lợi nhuận chỉ từ việc bán loại vắc-xin này.
Một năm trước khi sự việc đó xảy ra, Merck & Co đã tiến xa hơn trong việc chào hàng với chính phủ Hoa Kỳ, khi Cơ quan Di trú và Nhập tịch Hoa Kỳ (USCIS) bắt buộc những người nhập cư muốn xin cấp tư cách thường trú nhân hợp pháp tại Hoa Kỳ phải tiêm vắc-xin phòng ngừa HPV.
Điều này không tính đến những lo ngại nghiêm trọng về hồ sơ theo dõi của vắc-xin, vốn có liên quan đến các phản ứng nghiêm trọng và thậm chí gây tử vong như cục máu đông, đột quỵ và Hội chứng Guillain-Barré.
>>Tiếp: 6.3 Luật về tiêm chủng bắt buộc
6. Chương 4 - Critical Mass / Sự tích tụ tới hạn
>>Trước: 5.3.9 Các công ty dược phẩm lớn đang hoành hành
>>Trước: 5. Chương 3 - Có âm mưu gì không?
Quả thực, ngày 11 tháng 9 năm 2001 là một trong những giờ phút đen tối nhất của nước Mỹ, làm dấy lên nỗi lo sợ về các cuộc chiến tranh trong tương lai và lo ngại về khủng bố sinh học. Sau ngày 11/9, chính phủ Mỹ đã thông qua nhiều đạo luật để thiết lập nhiều biện pháp bảo vệ.
Vậy "Cuộc chiến chống khủng bố" của Mỹ liên quan thế nào đến tiêm chủng? Đó là bởi vì trong số các dự luật mới và được đề xuất, có hai dự luật đã gây phẫn nộ trên toàn quốc. Từ đống đổ nát của Tòa Tháp Đôi, Đạo luật Yêu nước Hoa Kỳ và Đạo luật Quyền hạn Y tế Khẩn cấp Tiểu bang (MSEHPA) đã ra đời, cả hai đều là những đạo luật gây tranh cãi gay gắt.
Mặc dù đạo luật thứ hai là một đạo luật ít được chú ý, Đạo luật Yêu nước lại thu hút sự chú ý, mặc dù xét về mặt tiêm chủng, cả hai đạo luật đều nguy hiểm như nhau. Tôi nói điều này bởi vì vì lợi ích phòng chống khủng bố, Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ, tiếp theo là một số tiểu bang của Mỹ, đã trao cho thống đốc tiểu bang và các cơ quan chính phủ khác quyền đình chỉ các quyền tự do dân sự của người dân "để kiểm soát dịch bệnh" và chống khủng bố sinh học. Chẳng trách nhiều người gọi bước đi nguy hiểm này là "thuốc súng".
Các cuộc biểu tình từ nhiều phía - bao gồm các nhà hoạt động chính trị nổi tiếng, các nhóm lợi ích công cộng, Hiệp hội Bác sĩ và Phẫu thuật viên Hoa Kỳ cũng như người dân thường đều không thành công và cả hai Đạo luật này đều đã được ghi nhận thành luật.
Điều này bất chấp sự chỉ trích gay gắt và dữ dội của công chúng, chỉ ra rằng cả hai đạo luật đều trao cho các thống đốc và chính quyền địa phương quyền lực độc tài và có khả năng lạm dụng và lạm dụng đáng kể. Và đây mới là điều gây sốc. Vào tháng 11 năm 2002, như thể dự đoán một "đại dịch", chính phủ Hoa Kỳ đã đưa vào Dự luật An ninh Nội địa một điều khoản bổ sung, theo đó miễn trừ trách nhiệm pháp lý đối với các nhà sản xuất vắc-xin.
Tại sao một chính phủ, nếu không thông đồng với các công ty dược phẩm, lại phải làm đến mức như vậy?
Khủng bố thực sự đã phủ bóng đen lâu hơn dự định của những kẻ chủ mưu vụ tấn công ngày 11 tháng 9, bởi vì Đạo luật Yêu nước và MSEHPA, chỉ trong một đòn tấn công rõ ràng, đã có khả năng bóp nghẹt các quyền tự do dân sự nhằm ngăn chặn "tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng". Liệu đây có phải là phản ứng thái quá của chính quyền liên bang hay còn điều gì đó sâu xa hơn thế nữa?
Trước tiên, hãy cùng xem qua bối cảnh của Đạo luật MSEHPA. Đạo luật này được CDC ủy quyền soạn thảo và do một trong những luật sư của CDC, Lawrence Gostin, biên soạn.
Gostin đã được trích dẫn trong Tạp chí của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ khi ông ủng hộ rằng với các biện pháp bảo vệ pháp lý dành cho công dân, "các cá nhân nên được yêu cầu từ bỏ một số quyền tự chủ, tự do hoặc tài sản của mình để bảo vệ sức khỏe và an ninh của cộng đồng".
Xin phép tôi trích dẫn từ chính Đạo luật này để tránh sự mơ hồ và để quý vị có thể hiểu rõ những gì các nhà lập pháp Hoa Kỳ, những người đại diện cho nhân dân, đã ủy quyền. Đạo luật MSEHPA quy định: "Trong trường hợp khẩn cấp về y tế công cộng, các quan chức tiểu bang và địa phương được phép sử dụng và chiếm dụng tài sản khi cần thiết cho việc chăm sóc, điều trị và nơi ở cho bệnh nhân, cũng như tiêu hủy các cơ sở vật chất bị ô nhiễm.
Họ cũng có quyền cung cấp dịch vụ chăm sóc, xét nghiệm, điều trị và tiêm chủng cho những người bị bệnh hoặc đã tiếp xúc với bệnh truyền nhiễm, và cách ly những người bị ảnh hưởng khỏi cộng đồng nói chung để ngăn chặn sự lây lan của bệnh tật."
Đúng vậy, các nhà lập pháp xảo quyệt có thể khiến ngay cả những luật lệ vô lý nhất cũng trở nên vô hại. Nếu bỏ qua ngôn ngữ pháp lý và chuyển sang ngôn ngữ thực tế, thì đây chính là ý nghĩa thực sự của nó. Đạo luật cho phép các cơ quan y tế công cộng bắt giữ (lưu ý việc sử dụng thuật ngữ "riêng biệt") cá nhân, tịch thu và đốt tài sản của họ, đồng thời tiêm cho họ những chất không rõ nguồn gốc (vắc-xin) nếu nghi ngờ họ mang một căn bệnh truyền nhiễm (thậm chí đơn giản như cảm lạnh thông thường!). Tất cả những điều này, như Đạo luật tuyên bố, là vì "lợi ích chung".
Đình chỉ các quyền Hiến pháp của 305 triệu người, MSEH-PA cho phép các cơ quan y tế công cộng buộc công dân Hoa Kỳ phải được tiêm chủng "bằng bất kỳ loại thuốc nào do Nhà nước lựa chọn". Những người chống đối có thể bị buộc tội nhẹ, bị bắt giữ và bị cách ly.
Với những ai cho rằng việc này chẳng có gì to tát và chẳng chính phủ nào lại thực sự áp dụng những biện pháp lố bịch như vậy, hãy đọc tiếp. Đạo luật MSEHPA ban đầu được Gostin soạn thảo ngay sau vụ tấn công bằng thư chứa vi khuẩn than năm 2001, ngay sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9. Được soạn thảo trong vòng chưa đầy một tháng, Gostin đề cập trong bản thảo rằng ông đã tham khảo ý kiến của nhiều hiệp hội và cơ quan pháp lý, lập pháp và y tế quốc gia.
Sau đó, tác giả đã phải rút lại lời khẳng định này (nói dối) và loại bỏ nó khỏi các phiên bản dự thảo sau này. Nếu mọi thứ đều đúng với luật (mà các điều khoản cho thấy rõ ràng là không đúng), tại sao Gostin lại nói dối về một văn bản nghiêm trọng như thế này?
Bản dự thảo cuối cùng của Đạo luật vi hiến này đã được Trung tâm Luật và Sức khỏe Cộng đồng công bố. Điều đáng lo ngại là kể từ đó, ít nhất 39 tiểu bang đã thông qua các dự luật sau khi kết hợp các điều khoản của MSEHPA.
6.1 WHO quyết định sức khỏe của bạn?
Hậu quả của việc tiêm chủng bắt buộc là gì? Điều gì sẽ xảy ra khi chính phủ tước đi quyền quyết định ai được phép và ai không được phép tiêm chất độc vào người bạn? Điều gì sẽ xảy ra khi nhà nước kiểm soát cơ thể bạn?
Nghe có vẻ đáng báo động nhưng đó là sự thật đáng buồn - cái chết thường xảy ra khi những quyết định như thế này bị tước đoạt khỏi tay người dân. Lịch sử đầy rẫy những trường hợp được ghi nhận về mặt y khoa, trong đó vắc-xin thử nghiệm được sử dụng dưới vỏ bọc "tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng", với nhiều trường hợp tử vong.
Động cơ khả dĩ của chính phủ là gì? Như đã thảo luận trước đó (Xem Chương 3: Có Âm mưu nào không?), khi các chính phủ, các cơ quan y tế thế giới và các tập đoàn dược phẩm lớn hợp tác, thường có hai mục tiêu chung. Lý do rõ ràng nhất là hàng tỷ đô la mà các nhóm vận động hành lang và tập đoàn này kiếm được từ việc cung cấp liều lượng hóa chất độc hại cho người dân vô tội.
Lý do thứ hai là một nỗ lực nhằm kiểm soát các quốc gia yếu hơn, theo đúng nghĩa đen, bằng cách làm suy yếu họ hơn nữa, bằng cách làm suy yếu hệ thống miễn dịch của dân chúng hàng loạt. Lý do thứ ba được một nhóm người được mệnh danh là những người theo thuyết âm mưu đưa ra là một nỗ lực giảm dân số, không khác gì những thí nghiệm ưu sinh kỳ quái mà Đức Quốc xã đã sử dụng trong Thế chiến II.
Ngay cả khi không có những động cơ này, sự thiếu hiểu biết, vô cảm và thiếu cân nhắc về mặt đạo đức vẫn có thể làm tàn tật, làm bị thương và thậm chí giết chết trẻ sơ sinh và người lớn bị buộc phải tiêm vắc-xin bằng thuốc tổng hợp, nhiều loại trong số đó có hồ sơ theo dõi đáng ngờ.
Vắc-xin viêm gan B từ lâu đã được cho là có liên quan đến các tác dụng phụ nghiêm trọng và lan rộng, bao gồm các bệnh tự miễn và các bệnh lý thần kinh, bao gồm đa xơ cứng, viêm khớp, viêm dây thần kinh thị giác và lupus.
Vắc-xin viêm gan B có lẽ cũng gây nhiều tranh cãi hơn bất kỳ loại vắc-xin nào khác ngoài việc bị nghi ngờ là phương tiện truyền bệnh AIDS vào quần thể người. (Xem Chương 3: Có âm mưu gì không?)
Tuy nhiên, không để ý đến những lo ngại này, các chính phủ trên khắp thế giới đã bắt buộc trẻ sơ sinh phải tiêm vắc-xin viêm gan B và ở một số quốc gia thậm chí còn cấm nhập học mẫu giáo nếu trẻ chưa được tiêm vắc-xin phòng bệnh.
Tuy nhiên, tại Pháp, sau một cuộc chiến kéo dài và sự phản đối dữ dội của công chúng, 15.000 công dân đã đệ đơn kiện tập thể chống lại chính phủ, dẫn đến việc chính quyền phải dừng chiến dịch tiêm chủng viêm gan B bắt buộc cho trẻ em đang đi học. Đáng tiếc là, vắc-xin này đã gây ra hậu quả nặng nề.
Có một số diễn đàn và liên minh toàn cầu về các chương trình tiêm chủng đại trà nhằm đảm bảo việc kiểm soát được giao cho một nhóm người có ảnh hưởng được lựa chọn. Mặc dù Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) là bộ mặt của y tế công, một câu hỏi thú vị cần đặt ra là ai tài trợ cho WHO và vô số chương trình của tổ chức này, những chương trình mà hàng triệu người "hưởng lợi" từ đó?
Thực tế là một số tổ chức và quỹ từ thiện lớn nhất thế giới, cũng như các tập đoàn, đang tài trợ cho một số dự án gây tranh cãi nhất thế giới. Và nếu bạn đang tự hỏi tất cả những điều này sẽ dẫn đến đâu, có lẽ bạn nên lưu ý một điều: Chính những cá nhân và tập đoàn này đã đứng sau các chỉ thị của WHO về tiêm chủng đại trà và các chương trình y tế khác.
Ví dụ, hãy xem xét Phong trào Ưu sinh, bắt đầu vào khoảng đầu thế kỷ 19. Phong trào này, dưới hình thức hiện tại, là một chương trình nghị sự kiểm soát dân số hiện đại do các quốc gia phát triển giàu có dẫn đầu, lo ngại rằng một "thế giới thứ ba" đang phát triển mạnh mẽ đang tiêu thụ một lượng lớn tài nguyên khan hiếm, khiến "thế giới thứ nhất" sẽ bị tước đoạt những nguồn tài nguyên này. Trong số những tài nguyên quý giá này có dầu mỏ.
Bạn có biết rằng một số nhà từ thiện 'nổi tiếng' nhất như John Rockefeller, Andrew Carnegie, Henry Ford và Quỹ Bill và Melinda Gates nằm trong số những người đi đầu tài trợ cho các dự án kiểm soát dân số thông qua các chương trình triệt sản hàng loạt và các chương trình khác ở các nước đang phát triển?
Bạn có biết rằng trong số những nhà tài trợ lớn nhất của WHO có Quỹ Rockefeller, Quỹ Bill và Melinda Gates, Quỹ Ford và tập đoàn Rothschild của Anh không? Vậy chúng ta đang đối mặt với câu hỏi: Ai kiểm soát WHO? Và tại sao?
Trong một bài thuyết trình gần đây tại hội nghị TED, Bill Gates đã trả lời câu hỏi cuối cùng này một cách không chút do dự và thẳng thắn. Ông nói: "Thế giới hiện nay có 6,8 tỷ người... và con số này sẽ tăng lên khoảng 9 tỷ. Nếu chúng ta thực sự làm tốt việc phát triển vắc-xin mới, chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ sức khỏe sinh sản, chúng ta có thể giảm con số đó xuống khoảng 10 hoặc 15%."
Bill Gates đã là người ủng hộ mạnh mẽ việc giảm dân số trong nhiều năm, và theo tuyên bố gần đây của ông, rõ ràng ông biết cách thực hiện điều đó. Việc tiêm chủng hàng loạt đã nhiều lần được chứng minh là gây ra tình trạng suy giảm sức khỏe sinh sản và vô sinh ở những nhóm dân số đã tiêm chủng ở Châu Phi và Châu Á. Nếu chúng ta "thực sự làm tốt việc tiêm chủng", chúng ta chắc chắn có thể hạn chế sự gia tăng của những nhóm dân số này. Nói cách khác, những cá nhân siêu giàu này quyết định ai và quốc gia nào có quyền sinh con và ai không.
Vắc-xin có thể hủy hoại khả năng sinh con chính là vũ khí tối thượng để kiểm soát cán cân quyền lực tương lai trên thế giới. Liệu đây có phải là lý do thực sự khiến những cá nhân này và các tổ chức của họ lại hào phóng đến vậy trong nỗ lực giúp thế giới loại bỏ các bệnh truyền nhiễm thông qua các chiến dịch tiêm chủng hàng loạt được trả tiền?
Liệu những "thế lực đứng sau" này có thực sự muốn giúp nhân loại tồn tại bằng cách giết chết một phần ba hoặc hơn để phần còn lại của chúng ta không phải tranh giành tài nguyên thiên nhiên của Trái Đất, hay chúng còn có động cơ nào đó đen tối hơn?
Những quỹ từ thiện này hoạt động trong bóng tối; chúng tác động đến luật pháp và kiểm soát chính sách của chính phủ thông qua các tổ chức như WHO, Ngân hàng Thế giới, UNICEF, cũng như các cơ quan chính phủ như CDC và FDA. Tôi không tin rằng họ thành lập những tổ chức phức tạp và có sức ảnh hưởng tương tự, được thiết kế để đảm nhận vai trò của một chính phủ toàn cầu chỉ để làm cho cuộc sống của chúng ta trên trái đất dễ dàng hơn. Những kẻ kiểm soát tài nguyên thiên nhiên, nguồn cung cấp thực phẩm, nước, du lịch và giáo dục, kiểm soát hầu như mọi thứ và mọi người.
Thêm vào đó là mối liên hệ với các công ty dược phẩm lớn, bức tranh sẽ hoàn toàn sụp đổ. Khi những người như thế này nắm quyền kiểm soát đáng kể đối với sức khỏe của bạn, họ gần như nắm quyền kiểm soát cơ thể bạn, tuổi thọ của bạn, và trẻ em, và ngược lại, khả năng của bạn trong việc chống lại các phương pháp và động cơ của chúng. Tất nhiên, đây là một mối quan hệ cộng sinh, với các công ty dược phẩm lớn nhất thế giới tài trợ cho các quỹ này và tham gia vào ban quản trị của họ.
Vậy nên lần tới khi bạn nhìn chằm chằm vào lọ vắc-xin, hãy nhớ rằng, có lẽ nó không như vẻ bề ngoài. Nhưng vẫn còn hy vọng. Có những công dân sáng suốt đã nhìn thấu những động cơ xảo quyệt này và đã đứng lên phản đối các chương trình tiêm chủng hàng loạt.
>>Tiếp: 6.2 Tiêm chủng bắt buộc
5.3.9 Các công ty dược phẩm lớn đang hoành hành
>>Trước: 5.3.8 Chúng ta có thể tin tưởng vào nghiên cứu y khoa không?
Còn nhiều thông tin hơn về các vụ lừa đảo và gian lận trong ngành kinh doanh ma túy.
Khoảng 200.000 người Mỹ tử vong do thuốc kê đơn mỗi năm. Đã có thời, các loại thuốc thông thường mà người Mỹ sử dụng chủ yếu được thử nghiệm tại Mỹ hoặc châu Âu, nhưng hiện nay hầu hết các thử nghiệm lâm sàng đều được tiến hành một cách thiếu đạo đức ở nước ngoài, tại các quốc gia nghèo hơn, nơi gần như không có quy định nào; nơi người nghèo, và thường là người mù chữ, ký vào mẫu đơn đồng ý bằng dấu vân tay; nơi nguy cơ kiện tụng là không đáng kể và sự giám sát của FDA quá ít ỏi đến mức các công ty có thể thoải mái làm theo ý mình. Nhờ toàn cầu hóa, các công ty dược phẩm đã tìm ra những con đường mới để kiếm tiền một cách bất chính hơn.
Romania, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Estonia, các tỉnh Đông Bắc Trung Quốc, Ba Lan, Nga - Các nhà thám hiểm của Big Pharma đã đến đó, thậm chí đến cả những thị trấn và địa điểm xa xôi, biệt lập trên khắp thế giới để tìm kiếm những người sẵn sàng tham gia thử nghiệm lâm sàng cho các loại thuốc mới, và do đó giúp thuyết phục FDA tuyên bố các loại thuốc này an toàn và hiệu quả cho người Mỹ.
Bangladesh là nơi diễn ra 76 thử nghiệm lâm sàng, Malawi 61, Liên bang Nga 1.513, Romania 876, Thái Lan 786, Ukraine 589, Kazakhstan 15, Peru 494, Iran 292, Thổ Nhĩ Kỳ 716 và Uganda 132.
Theo tổng thanh tra Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh, cho đến năm 1990, chỉ có 271 thử nghiệm được tiến hành ở nước ngoài, trong khi trong vòng chưa đầy hai thập kỷ, vào năm 2008, con số này đã tăng lên 6.458 - tăng hơn 2.000 phần trăm!
Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ (NIH) đã biên soạn một cơ sở dữ liệu và đã xác định được 58.788 thử nghiệm như vậy tại 173 quốc gia bên ngoài Hoa Kỳ kể từ năm 2000. Chỉ riêng năm 2008, theo báo cáo của tổng thanh tra, 80% đơn xin cấp phép thuốc mới nộp cho FDA có chứa dữ liệu từ các thử nghiệm lâm sàng nước ngoài, và ngày càng nhiều công ty dược phẩm thực hiện tất cả các thử nghiệm của họ ở nước ngoài. Trên thực tế, 20 trong số các công ty dược phẩm lớn nhất có trụ sở tại Hoa Kỳ hiện đang tiến hành "một phần ba các thử nghiệm lâm sàng của họ hoàn toàn tại các địa điểm nước ngoài".
Tất cả những điều này xảy ra khi 2.900 loại thuốc khác nhau dành cho khoảng 4.600 tình trạng bệnh khác nhau đang được thử nghiệm lâm sàng và chuẩn bị tung sản phẩm ra thị trường.
Một câu hỏi quan trọng cần đặt ra là: liệu kết quả của các thử nghiệm lâm sàng được tiến hành ở nước ngoài có liên quan đến người Mỹ hay không? Người dân ở các nước kém phát triển hơn có thể chuyển hóa thuốc khác với người Mỹ. Các bệnh phổ biến ở các nước khác, chẳng hạn như sốt rét và lao, có thể làm sai lệch kết quả của các thử nghiệm lâm sàng.
Nhưng các công ty dược phẩm chưa bao giờ có điều kiện tốt hơn, với chi phí tiến hành thử nghiệm rẻ hơn nhiều ở những nơi mà người dân địa phương chỉ kiếm sống được với mức thu nhập ít nhất là một đô la một ngày.
Một số loại thuốc được thử nghiệm ở nước ngoài là những cái tên quen thuộc, chẳng hạn như thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) Celebrex, đã được quảng cáo trên truyền hình hơn 10 năm. Nhà sản xuất của nó, Pfizer, công ty dược phẩm lớn nhất thế giới, đã chi hơn một tỷ đô la để quảng bá nó như một loại thuốc giảm đau cho bệnh viêm khớp và các tình trạng khác, bao gồm cả đau bụng kinh.
NIH lưu giữ hồ sơ về hầu hết các thử nghiệm thuốc trong và ngoài Hoa Kỳ, và cơ sở dữ liệu của họ thống kê 290 nghiên cứu liên quan đến Celebrex, trong đó chỉ có 183 nghiên cứu được thực hiện tại Hoa Kỳ và 107 nghiên cứu được thực hiện tại 36 quốc gia khác như Estonia, Croatia, Lithuania, Costa Rica, Colombia, Nga, Mexico, Trung Quốc, Brazil và Ukraine. Các công ty không bắt buộc phải báo cáo tất cả các nghiên cứu được thực hiện ở nước ngoài, và họ cũng không hề nỗ lực để làm như vậy.
Vậy điều gì đã xảy ra với Celebrex? Người ta phát hiện ra rằng những bệnh nhân dùng Celebrex có nguy cơ bị đau tim và đột quỵ cao hơn những người dùng các loại thuốc giảm đau cũ hơn và rẻ hơn. Người ta cũng nghi ngờ Pfizer đã che giấu một nghiên cứu thu hút sự chú ý đến những sự thật này. Không khó để đoán Pfizer sẽ làm gì tiếp theo - họ phủ nhận rằng nghiên cứu này được giữ bí mật và khẳng định rằng họ "đã hành động có trách nhiệm khi chia sẻ thông tin này một cách kịp thời với FDA."
Không lâu sau, Tạp chí của Hội Y học Hoàng gia đã báo cáo thêm một số kết quả tiêu cực. Trong khi đó, Pfizer đang khuyến khích bệnh nhân Alzheimer sử dụng Celebrex, hy vọng rằng loại thuốc này sẽ làm chậm tiến triển của chứng mất trí nhớ. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Thứ làm chậm lại chính là doanh số của Celebrex. Từ 3,3 tỷ đô la vào năm 2004, doanh số bắt đầu giảm.
Một yếu tố lớn dẫn đến việc chuyển hướng các thử nghiệm lâm sàng sang nước ngoài là lỗ hổng trong quy định của FDA: nếu các nghiên cứu tại Hoa Kỳ cho thấy một loại thuốc không mang lại lợi ích, các thử nghiệm từ nước ngoài thường có thể được sử dụng để đảm bảo FDA phê duyệt. Khi các công ty dược phẩm cần dữ liệu tích cực và cần nhanh chóng, họ sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ từ các "quốc gia cứu trợ" nhanh chóng hỗ trợ họ.
Vào những năm 1990, Aventis Pharmaceuticals (nay là Sanofi Aventis), đã phát triển Ketek, một loại kháng sinh điều trị nhiễm trùng đường hô hấp. Năm 2004, khi FDA chứng nhận Ketek là hiệu quả và vô hại, phán quyết của họ về cơ bản dựa trên kết quả của các nghiên cứu được thực hiện tại các quốc gia như Hungary, Maroc, Tunisia và Thổ Nhĩ Kỳ. Sự chứng thực này được đưa ra chỉ vài tuần sau khi một nhà nghiên cứu ở Hoa Kỳ bị kết án 57 tháng tù vì làm giả dữ liệu Ketek của chính mình. Tiến sĩ Anne Kirkman-Campbell, đến từ Gadsden, Alabama, dường như chỉ gặp những người tình nguyện sẵn sàng tham gia vào một thử nghiệm thuốc. Bà đã tuyển dụng hơn 400 người trưởng thành tại địa phương, bao gồm toàn bộ nhân viên văn phòng của mình. Đổi lại, bà nhận được 400 đô la mỗi người từ Sanofi Aventis.
Sau đó, người ta phát hiện ra rằng dữ liệu từ ít nhất 91 phần trăm bệnh nhân của bà là giả mạo. (Kirkman-Campbell không phải là nhà nghiên cứu Aventis khó tính duy nhất. Cũng có những người khác có tiếng xấu, nhưng thuốc Ketek đã được chấp thuận dựa trên các thử nghiệm ở nước ngoài).
Với các hoạt động lừa đảo y tế quy mô lớn mà chúng ta đang phải đối mặt ngày nay, bao gồm cả các chương trình tiêm chủng đại trà, tôi khuyên mọi người nên làm bài tập về nhà trước khi để những kẻ kiếm sống bằng cách lừa đảo người khác lợi dụng mình. Những gã khổng lồ dược phẩm sẽ nhanh chóng trở thành những chú lùn vô hại nếu chúng ta quyết định không sử dụng các sản phẩm độc hại của họ và sa vào những chiêu trò gây sợ hãi dai dẳng của họ, mà thay vào đó hãy chăm sóc sức khỏe của mình một cách tự nhiên.
>>Tiếp: 6. Chương 4 - Critical Mass / Sự tích tụ tới hạn
5.3.8 Chúng ta có thể tin tưởng vào nghiên cứu y khoa không?
>>Trước: 5.3.7 Động cơ ẩn giấu
John Ioannidis, một trong những chuyên gia uy tín nhất thế giới về độ tin cậy của nghiên cứu y khoa, lại không nghĩ vậy. Theo ông và nhóm nghiên cứu lỗi lạc của mình, có tới 90% thông tin y khoa được công bố mà các bác sĩ dựa vào để kê đơn thuốc, vắc-xin hoặc khuyến nghị phẫu thuật là sai sót hoặc không chính xác.
Vào tháng 11 năm 2010, tờ The Atlantic đưa tin: "Công trình của ông (John Ioannidis) đã được cộng đồng y khoa chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, bất chấp mọi ảnh hưởng của mình, ông lo ngại rằng lĩnh vực nghiên cứu y khoa có quá nhiều sai sót và đầy rẫy xung đột lợi ích đến mức có thể sẽ không thể thay đổi, hoặc thậm chí là không thể công khai thừa nhận rằng có vấn đề."
Ngoài ra, hầu hết các bác sĩ và bệnh nhân đều khẳng định rằng các phương pháp điều trị y khoa hiện đại, bao gồm cả thuốc men, đều "được chứng minh khoa học". Tuy nhiên, theo một bài báo trên Huffington Post (tháng 4 năm 2010) của Dana Ullman, điều này không đúng. "...lý tưởng này chỉ là một giấc mơ, không phải hiện thực, và là một chiêu trò tiếp thị khéo léo và sinh lời, chứ không phải sự thật". Ullman đưa tin: "'Bằng chứng Lâm sàng' của Tạp chí Y khoa Anh đã phân tích các phương pháp điều trị y khoa phổ biến để đánh giá xem phương pháp nào được hỗ trợ bởi bằng chứng đáng tin cậy đầy đủ (BMJ, 2007). Họ đã xem xét khoảng 2.500 lần điều trị và phát hiện:
13 % được phát hiện là có lợi
23 % có khả năng có lợi
8 % có khả năng gây hại nhiều như có lợi
6 % không có khả năng mang lại lợi ích
4 % có khả năng gây hại hoặc không hiệu quả.
46 % không biết liệu chúng có hiệu quả hay có hại"
Tệ hơn nữa là những gì xảy ra khi các bác sĩ phát thuốc chưa được phê duyệt cho những bộ phận dân số không hề hay biết như thể chúng là kẹo. Ullman viết: "Tất cả chúng ta đều muốn thuốc dùng cho trẻ sơ sinh an toàn nhất có thể, nhưng các ông bố bà mẹ sẽ ngạc nhiên và có lẽ sốc khi biết rằng rất ít loại thuốc được thử nghiệm trên trẻ sơ sinh." Ông trích dẫn một nghiên cứu năm 2007 trên hơn 350.000 trẻ em cho thấy một con số đáng kinh ngạc là 78,7% trẻ em trong bệnh viện được kê đơn thuốc mà FDA thậm chí còn chưa phê duyệt để sử dụng cho trẻ em (Shah, Hall, Goodman, et al, 2007). "Nếu điều này chưa đủ gây sốc, một cuộc khảo sát ở Anh cho thấy 90% trẻ sơ sinh được kê đơn thuốc chưa được kiểm nghiệm về độ an toàn hoặc hiệu quả ở trẻ sơ sinh (Conroy, McIntyre, Choonara, 1999)", Ullman nói.
Tình hình sẽ không quá nghiêm trọng nếu trẻ em được điều trị không bị ảnh hưởng bởi những loại thuốc này. Tuy nhiên, theo Ullman, "tỷ lệ phản ứng có hại của thuốc ở trẻ em được kê đơn thuốc không theo chỉ định tăng gần 350% so với trẻ em được kê đơn thuốc đã được kiểm nghiệm về độ an toàn và hiệu quả (Horen, Montastruc và Lapeyre-mestre, 2002)". Ông cho biết các bác sĩ đang thường xuyên "lạm dụng trẻ em trong điều trị".
Những lời cáo buộc này không nên bị các bậc phụ huynh, bác sĩ và nhà khoa học có trách nhiệm xem nhẹ. Chúng phản ánh căn bệnh nghiêm trọng mà ngành y đang phải gánh chịu, và căn bệnh này ảnh hưởng đến hầu hết mọi người. Bằng chứng khoa học được cho là có giá trị đã được chứng minh của thuốc chỉ là một huyền thoại đã làm thay đổi sức khỏe và chất lượng cuộc sống của hàng triệu người, đồng thời cướp đi sinh mạng của nhiều người khác.
Y học đúng là trò lừa bịp đỉnh cao. Như Ullman chỉ ra, "Trò lừa bịp" thường được định nghĩa là việc sử dụng các phương pháp điều trị chưa được chứng minh bởi các cá nhân hoặc công ty, những người tuyên bố kết quả tuyệt vời và thu những khoản tiền lớn." Ông nói rằng "mặc dù các bác sĩ hiện đại có thể chỉ trích nhiều phương thức điều trị 'thay thế' hoặc 'tự nhiên' khác nhau là ví dụ về sự lừa đảo, nhưng chính các phương pháp điều trị y tế thông thường ngày nay lại cực kỳ tốn kém, và mặc dù hiệu quả của các phương pháp điều trị này thực sự đáng ngờ, các bác sĩ vẫn đưa ra cho bệnh nhân vỏ bọc 'khoa học'."
Khi hơn 85% các liệu pháp hiện đang được y học chính thống khuyến nghị chưa bao giờ được chứng minh chính thức, chúng ta có thể bắt đầu tự hỏi liệu khoa học y tế có xứng đáng với niềm tin của bất kỳ ai hay không. Bạn có giao xe cho một thợ máy chỉ hứa hẹn 15% rằng chuyên môn cơ khí tối thiểu của anh ta sẽ thành công trong việc sửa chữa một lỗi nghiêm trọng trong động cơ xe của bạn không? Nhưng đây chính xác là những gì chúng ta làm khi giao phó cuộc sống của mình cho một bác sĩ được đào tạo bởi một hệ thống y tế về cơ bản đã bị tha hóa.
Gốc rễ của vấn đề nằm ở cách thức nghiên cứu khoa học đang được tiến hành hiện nay. Ví dụ, trong quá trình phân tích các thử nghiệm thuốc chống trầm cảm, FDA phát hiện ra rằng trong số 38 thử nghiệm có bằng chứng thuận lợi, 37 thử nghiệm đã được công bố. Trong khi đó, trong số 36 thử nghiệm có bằng chứng không thuận lợi cho thuốc chống trầm cảm, 22 thử nghiệm không được công bố, và 11 thử nghiệm được công bố theo cách truyền đạt kết quả một cách sai lệch như thể nó thuận lợi.
Theo đó, các công ty dược phẩm lớn có thể công khai hợp pháp những phát hiện tích cực mà họ muốn bạn và bác sĩ biết, bất kể 50% thử nghiệm phản ánh kém hiệu quả của thuốc chống trầm cảm được nghiên cứu. Nói cách khác, các nhà sản xuất thuốc che giấu công chúng rằng một nửa số thử nghiệm được thực hiện trên loại thuốc này không chứng minh được hiệu quả.
Các nhà sản xuất thuốc không nhất thiết phải công bố các nghiên cứu tiêu cực. Họ thực hiện càng nhiều nghiên cứu càng tốt, và một khi chỉ có hai nghiên cứu với kết quả tương đối tích cực, họ có thể bỏ qua tất cả các nghiên cứu tiêu cực. Có thể có tới 20 nghiên cứu tiêu cực và chỉ 2 nghiên cứu tích cực, đủ để một loại thuốc được FDA chấp thuận và được quảng bá rộng rãi đến cộng đồng. Trong khi các nghiên cứu tích cực được công bố trên các tạp chí y khoa, thì các nghiên cứu tiêu cực lại bị che giấu, không bao giờ được tiết lộ nữa, trừ khi bạn tìm được một chuyên gia về vấn đề này như Tiến sĩ Ioannidis.
Năm 2005, Tiến sĩ Ioannidis đã chứng minh rằng khả năng kết quả của bất kỳ bài báo khoa học nào được chọn ngẫu nhiên là đúng là dưới 50%. Như Tiến sĩ Ioannidis đã viết: "Trong khuôn khổ này, một phát hiện nghiên cứu ít có khả năng đúng khi các nghiên cứu được thực hiện trong một lĩnh vực nhỏ hơn; khi quy mô hiệu ứng nhỏ hơn; khi số lượng các mối quan hệ được kiểm tra lớn hơn và ít được lựa chọn trước hơn;... khi có sự linh hoạt hơn trong thiết kế, định nghĩa, kết quả và phương pháp phân tích; khi có nhiều lợi ích và định kiến về tài chính và các lĩnh vực khác; và khi có nhiều nhóm hơn tham gia vào một lĩnh vực khoa học nhằm theo đuổi ý nghĩa thống kê. Các mô phỏng cho thấy đối với hầu hết các thiết kế và bối cảnh nghiên cứu, tuyên bố nghiên cứu có nhiều khả năng sai hơn là đúng. Hơn nữa, đối với nhiều lĩnh vực khoa học hiện nay, các kết quả nghiên cứu được tuyên bố thường chỉ là những thước đo chính xác về sai lệch đang thịnh hành.
Năm 2008, trong một phân tích mới được công bố trên Tạp chí Y khoa Hoa Kỳ, Tiến sĩ Ioannidis tiết lộ rằng phần lớn các nghiên cứu khoa học đã công bố đều rất đáng ngờ. Ông phát hiện ra rằng những nghiên cứu gây hiểu lầm nhất là những nghiên cứu phóng đại những kết quả ấn tượng hoặc được coi là quan trọng. Những điều này bao gồm các bài viết giúp phổ biến rộng rãi các phương pháp điều trị như sử dụng liệu pháp thay thế hormone cho phụ nữ mãn kinh, vitamin E để giảm nguy cơ mắc bệnh tim, đặt stent động mạch vành để ngăn ngừa đau tim, và uống aspirin liều thấp hàng ngày để kiểm soát huyết áp và ngăn ngừa đau tim và đột quỵ. Như chúng ta đã biết ngày nay, nhiều kết quả trong số này đã bị làm sai lệch, nhưng hàng triệu người đã (và vẫn đang) phải chịu đựng những phương pháp điều trị này, nhiều người trong số họ đã bị tổn hại hoặc tử vong. Ví dụ, liệu pháp thay thế hormone đã dẫn đến sự gia tăng chưa từng có của ung thư vú và bệnh tim, và stent động mạch vành chưa bao giờ được chứng minh là làm giảm tỷ lệ tử vong do bệnh động mạch vành.
Nếu chỉ 41% nghiên cứu y khoa được ca ngợi nhất bị chứng minh một cách thuyết phục là sai hoặc bị phóng đại quá mức, điều mà Ioannidis đã làm trong phân tích của mình, thì phạm vi và tác động của vấn đề này đơn giản là không thể tưởng tượng nổi. Tệ hơn nữa, ngay cả sau khi các nghiên cứu nổi bật bị bác bỏ một cách thuyết phục bởi các nghiên cứu lặp lại, các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục trích dẫn kết quả ban đầu là chính xác nhiều hơn là sai sót - trong một trường hợp, điều này kéo dài ít nhất 12 năm sau khi kết quả bị bác bỏ, theo phân tích.
Vấn đề chính nằm ở chỗ nghiên cứu độc lập, khách quan hiếm khi được thực hiện, trừ khi được công bố. Một nhà nghiên cứu độc lập rất khó huy động đủ kinh phí cho nghiên cứu, và nếu nghiên cứu không có cơ hội được công bố, thì việc dành nhiều thời gian và tiền bạc như vậy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Quy trình tuyển chọn không công bằng này đảm bảo rằng những gì chúng ta được nghe về "khoa học y khoa" chỉ là sự thật một phần, dù tốt nhất là vậy. Như câu nói "một chút kiến thức cũng nguy hiểm", giờ đây, cả về mặt tập thể lẫn cá nhân, chúng ta đang phải đối mặt với hậu quả của việc từ bỏ trách nhiệm đối với sức khỏe của chính mình.
Hầu như tất cả các thử nghiệm lâm sàng lớn liên quan đến thuốc đều được tài trợ, ít nhất là một phần, bởi các công ty dược phẩm. Điều này hợp lý vì các công ty dược phẩm có lợi ích cố hữu trong việc kiếm tiền từ khoản đầu tư của họ. Ví dụ:
Các nghiên cứu về thuốc bán chạy nhất thế giới, statin, với doanh thu hơn nửa nghìn tỷ đô la mỗi năm, đều được các công ty dược phẩm tài trợ. Dĩ nhiên, các công ty dược phẩm đã lan truyền quan niệm sai lầm rằng cholesterol cao là kẻ thù của chúng ta và chúng ta phải kiểm soát nó bằng cách dùng statin suốt đời.
Những khám phá mới của các nhà nghiên cứu tại Đại học California, được công bố trên tạp chí Annals of Medicine vào tháng 10 năm 2010, đã chỉ ra rằng 92% trong số khoảng 145 thử nghiệm lâm sàng được thực hiện từ năm 2008 đến năm 2009 là không hợp lệ vì họ không tiết lộ loại giả dược đã sử dụng. Bằng cách thao túng giả dược, trong trường hợp này là loại thực sự làm tăng cholesterol ở nhóm đối chứng, các nhà nghiên cứu có thể dễ dàng "chứng minh" rằng thuốc statin là hiệu quả hơn giả dược. Đọc thêm về vụ gian lận y tế được FDA chấp thuận này ở phần sau.
Ngay cả khi vụ gian lận bị phát hiện và các công ty dược phẩm bị phạt vì thao túng nghiên cứu hoặc không công bố các tác dụng phụ nghiêm trọng đã biết, hoạt động kinh doanh vẫn tiếp tục diễn ra như thường lệ. Các công ty dược phẩm lớn, niêm yết trên sàn chứng khoán, như Merck và Pfizer, đơn giản là quá lớn để sụp đổ, ngay cả khi họ bị kết tội là kẻ chủ mưu của các vụ gian lận y tế quy mô lớn. Thật vô lý khi cho rằng bất kỳ thử nghiệm lâm sàng nào do một gã khổng lồ dược phẩm thực hiện đều mang lại kết quả không như mong đợi của họ. Tuy nhiên, các công ty dược phẩm hiện là nguồn tài trợ chính cho phần lớn các nghiên cứu trên thế giới. Việc nắm giữ độc quyền về loại nghiên cứu nào phù hợp để tiến hành chính là yếu tố quyết định "bằng chứng khoa học" được ca ngợi hết lời của chúng ta.
Điều chúng ta cần rút ra từ đây là bất kỳ loại thuốc hay phương pháp điều trị nào được chứng minh khoa học đều không có nghĩa là nó an toàn hay hiệu quả. Tương tự, việc thiếu bằng chứng khoa học cho thấy một loại thảo mộc hay phương pháp điều trị tự nhiên có hiệu quả hay an toàn không có nghĩa là nó không hiệu quả. Chúng ta là người chịu trách nhiệm cho bản thân và gia đình, không ai khác. Tôi khuyên bạn nên tự nghiên cứu và quyết định điều gì hữu ích cho mình và điều gì không.
>>Tiếp: 5.3.9 Các công ty dược phẩm lớn đang hoành hành
5.3.7 Động cơ ẩn giấu
>>Trước: 5.3.6 Nơi Hai thế giới gặp nhau
Vậy lợi nhuận có phải là động lực rõ ràng cho huyền thoại vắc-xin? Hay còn lý do nào khác khiến các chính phủ tiêm chủng cho số lượng lớn dân số thế giới và thúc đẩy chương trình tiêm chủng lên một cộng đồng thiếu hiểu biết?
Câu trả lời cho câu hỏi này rất phức tạp, tinh tế và đôi khi khó hiểu. Thực tế là vắc-xin nhắm vào hệ thống miễn dịch, khiến nó hoạt động không bình thường và khiến con người dễ mắc bệnh. Bệnh tật đảm bảo thị trường sẵn sàng cho các nhà sản xuất thuốc và duy trì lợi nhuận.
Nhưng mọi chuyện không phải lúc nào cũng đơn giản và trắng trợn như vậy. Dù bạn có tin hay không, vắc-xin cũng phục vụ những mưu đồ chính trị tinh vi. Chúng giúp thống trị con người, các nhóm người và thậm chí cả các quốc gia mà phương Tây muốn kiểm soát - ngay cả dân số của chính họ. Bằng cách làm suy yếu người dân một cách có hệ thống thông qua tiêm chủng hàng loạt và dự đoán số phận bi thảm cho những người không tự nguyện tiêm chủng cho bản thân và con cái, các chính phủ đã âm thầm tạo ra cảm giác yếu đuối về mặt tâm lý.
Điều này, đến lượt nó, tạo ra cảm giác bất lực, khuất phục và phụ thuộc vào những người có thẩm quyền - các cơ quan chính phủ, chính trị gia và các tổ chức quốc tế. Do đó, mọi người có xu hướng tin vào những gì "người có thẩm quyền" này nói.
Tiêm chủng là một công cụ hiệu quả được các quốc gia phương Tây sử dụng trong nhiều thập kỷ nhằm mục đích kiểm soát xã hội và kinh tế đối với một số nước đang phát triển như minh họa rõ ràng qua mô hình châu Phi.
Châu Phi là một lục địa giàu tài nguyên thiên nhiên. Việc giữ cho người dân châu Phi yếu đuối, bận tâm với bệnh tật và vật lộn với dịch bệnh chỉ phục vụ cho lợi ích kinh tế của phương Tây. Tiêm chủng, cùng với dòng viện trợ kinh tế đổ vào, đã có tác dụng dập tắt hiệu quả các cuộc nổi loạn tiềm tàng và ngăn chặn tư duy lý trí.
Đây là một chiến lược kiểu Machiavelli, liên quan đến nhiều tầng lớp người duy trì chương trình nghị sự này - UNICEF, Hội Chữ thập đỏ, WHO và một mạng lưới khổng lồ các tổ chức phi lợi nhuận toàn cầu. Và trong khi hàng tỷ người bị dẫn dắt để tin rằng động cơ của họ không gì khác ngoài sự cao cả, thì vắc-xin cũng dễ dàng chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của một số công ty và cá nhân quyền lực.
Việc để toàn bộ dân số hoặc một bộ phận dân số bị bệnh và dễ bị tổn thương cũng làm sao nhãng sự chú ý khỏi các vấn đề xã hội và kinh tế thực sự. Những vấn đề này gây bất tiện cho chính phủ vì chúng đòi hỏi quyết tâm thực sự và ngân sách khổng lồ để giải quyết.
Các nhà nghiên cứu hàn lâm, tác giả uy tín và một số nhà nghiên cứu y khoa cũng tin rằng vắc-xin đang được sử dụng như một vũ khí sinh học để tiêu diệt một số nhóm kinh tế xã hội và sắc tộc. Như đã thảo luận ở trên, một nhóm các nhà nghiên cứu lấy virus HIV làm ví dụ về loại vũ khí được thiết kế và chế tạo trong các phòng thí nghiệm của Hoa Kỳ để phục vụ cho mục đích này.
Liệu đây có phải là một cuộc diệt chủng không? Chúng ta được biết một số tiết lộ gây sốc của Tiến sĩ Sidney Gottlieb, một bác sĩ tâm thần quân y từng giữ chức vụ quan trọng tại Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) vào những năm 1950, người sau này tuyên bố rằng ông được các cấp trên chính trị của mình chỉ thị sử dụng virus trong cuộc đấu tranh giành quyền kiểm soát của phương Tây đối với Congo thuộc Bỉ hay Zaire ngày nay.
Trong phiên điều trần của CIA, Gottlieb thừa nhận rằng ông ta được cử đến Congo với "vật liệu sinh học gây chết người" (chứa virus), được sử dụng để ám sát thủ tướng dân cử đầu tiên của đất nước này sau khi quốc gia châu Phi này giành được độc lập từ Bỉ. Đất nước này giàu tài nguyên khoáng sản, và ngay khi thoát khỏi ách thống trị của thực dân, Hoa Kỳ đã quyết tâm giành quyền kiểm soát.
Tiến sĩ Gottlieb đã không thành công trong nhiệm vụ của mình vì CIA không thể tìm ra cách đầu độc sinh học chính trị gia mà họ nhắm đến. Tuy nhiên, sau đó, Tiến sĩ Gottlieb được cho là đã thú nhận trong các phiên điều trần của CIA rằng ông đã đổ "vật liệu sinh học gây chết người" này xuống sông Congo. Liệu ông có được chỉ thị làm vậy hay đó chỉ là một hành động bất cẩn? Một số người tin rằng đó không phải là tai nạn.
Các cuộc thử nghiệm vắc-xin viêm gan B hàng loạt trong cộng đồng người Mỹ bản địa - những người có diện tích đất rộng lớn thường xuyên đối đầu với chính phủ liên bang Hoa Kỳ - cũng nhiều lần khiến một bộ phận các nhà nghiên cứu cũng như cộng đồng người Mỹ bản địa phải ngạc nhiên.
Những thử nghiệm này được tiến hành vào năm 1981 tại Alaska, trên những người chưa từng có tiền sử bệnh viêm gan B. Tuy nhiên, vắc-xin viêm gan B dạng huyết tương cũng đã được đưa vào sử dụng tại các trường học và trong các chương trình tiêm chủng cho người lớn.
Điều đáng ngạc nhiên - hoặc không - đối với trẻ em đang đi học là chương trình này không yêu cầu sự đồng ý của phụ huynh, cũng không có bất kỳ lý do chính đáng nào được đưa ra cho một chiến dịch tiêm chủng trong một cộng đồng dân tộc không yêu cầu điều đó. Vài năm sau - các triệu chứng của bệnh do vắc-xin gây ra thường có thời gian ủ bệnh khá dài - một kiến nghị đã được đệ trình lên Ủy ban Đặc biệt về Các vấn đề Người bản địa của Thượng viện Hoa Kỳ, trong đó tuyên bố rằng vắc-xin có thể chứa máu nhiễm bệnh có thể gây ra các bệnh tự miễn trong cộng đồng.
Theo những người đưa ra bản trình bày, đây là lời giải thích duy nhất cho sự gia tăng các bệnh như tiểu đường, ung thư và bệnh tim vốn không phổ biến ở người Mỹ bản địa khỏe mạnh ở Alaska.
Bản trình bày trước Ủy ban Thượng viện cáo buộc chính phủ liên bang sử dụng người dân Alaska trong các thí nghiệm y tế để thử nghiệm vắc-xin nguy hiểm. Đây không phải là lần đầu tiên cáo buộc như vậy được đưa ra.
Có một sự thật đã được ghi chép rằng một số bộ phận "có thể hy sinh" (tức là các nhóm dân tộc) của dân số loài người đã được sử dụng cho các thí nghiệm y tế mà họ không hề hay biết.
>>Tiếp: 5.3.8 Chúng ta có thể tin tưởng vào nghiên cứu y khoa không?
5.3.6 Nơi Hai thế giới gặp nhau
>>Trước: 5.3.5 Nghiên cứu vắc-xin: Giả mạo!
Sự kết hợp giữa y học và dược phẩm không phải là ngẫu nhiên và có nguồn gốc từ lịch sử của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (AMA), cơ quan bác sĩ lớn nhất và có ảnh hưởng nhất tại Hoa Kỳ.
Vào thời điểm AMA đang thất bại và gần như phá sản và các trường y trong nước đang rất cần tài trợ, hai trong số những quỹ từ thiện lớn nhất nước Mỹ đã tham gia tài trợ là quỹ Rockefeller và quỹ Carnegie.
Việc họ tài trợ cho AMA, giáo dục y khoa và tài trợ cho Báo cáo Flexner quan trọng, mang lại những thay đổi sâu rộng trong hoạt động y tế, là bước ngoặt trong lịch sử y học tại Hoa Kỳ.
Đó là một bước ngoặt, bởi vì nguồn tài trợ của các quỹ này phụ thuộc vào một loại hình giáo dục y khoa nhất định, một loại hình đào tạo bác sĩ theo hướng thực hành liên quan đến thuốc. Chính những hoạt động này - không phải ngẫu nhiên mà các công ty dược phẩm nhận được tài trợ từ hai quỹ này - đã gieo mầm cho nhiều căn bệnh hiện đại.
Giữa thế kỷ 20 chứng kiến một bước ngoặt khác trong y học - sự trỗi dậy của nhiều chuyên khoa hoặc nhánh y học đối chứng. Đột nhiên, dường như mọi bộ phận trên cơ thể con người đều có một chuyên gia để chữa trị!
Điều này cũng không phải ngẫu nhiên. Việc thiên về điều trị triệu chứng đồng nghĩa với việc các triệu chứng sẽ tái phát, điều này đảm bảo nhu cầu thuốc ổn định và do đó tạo ra một thị trường sẵn có cho các loại thuốc do các công ty được hai quỹ này tài trợ.
Đây là khởi đầu của một mạng lưới phức tạp gồm những cá nhân và tổ chức liên quan đến ngành y, các trường y, các công ty dược phẩm, các bác sĩ thuộc mọi chuyên ngành y học, các công ty bảo hiểm và các cơ quan y tế của chính phủ như FDA - tìm cách thông đồng với nhau để duy trì huyền thoại rằng sức khỏe và tính mạng con người nằm trong tay các nhà sản xuất thuốc.
Tiêm chủng là một phần của huyền thoại về thuốc tổng hợp hoặc thuốc chữa bệnh, và do đó, các quy tắc và mạng lưới lừa đảo tương tự cũng được áp dụng. Vì vậy, bất kỳ chiến dịch tiêm chủng hay thông điệp dịch vụ công nào kêu gọi cộng đồng tiêm chủng đều có động cơ thầm kín. Sức khỏe của bạn không hề được đặt lên hàng đầu.
Để duy trì huyền thoại về liệu pháp dị ứng, các cơ quan y tế đã nỗ lực hết sức để bác bỏ bất kỳ hình thức trị liệu y tế nào không phải là liệu pháp dị ứng. Với sự giúp đỡ của phương tiện truyền thông, họ và các cơ sở y tế đã làm tốt việc thuyết phục công chúng rằng thuốc - và chỉ có thuốc - mới là bảo hiểm cho một cuộc sống lâu dài và khỏe mạnh.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhận thức về những động cơ này và cách thức mà chính phủ và các công ty dược phẩm tác động và thao túng nhận thức của công chúng về sức khỏe và bệnh tật ngày càng tăng.
Nhưng liệu lợi nhuận có phải là động cơ duy nhất?
>>Tiếp: 5.3.7 Động cơ ẩn giấu
5.3.5 Nghiên cứu vắc-xin: Giả mạo!
>>Trước: 5.3.4 Trở thành Retro (sao chép ngược): Hội chứng mệt mỏi mãn tính
Các nhà sản xuất vắc-xin thường không đặt lương tâm lên trên khoa học. Nghiên cứu khoa học đầy rẫy những ví dụ về dữ liệu không đáng tin cậy, các thử nghiệm lâm sàng không đủ đối chứng, các mẫu không mang tính đại diện và các nhà nghiên cứu vô tình hoặc cố ý làm sai lệch kết quả. Và, không, các nhà nghiên cứu vắc-xin không miễn nhiễm với những căn bệnh này.
Đợt bùng phát cúm lợn năm 2009 là ví dụ điển hình về các phương tiện truyền thông đưa tin vô trách nhiệm và các công ty dược phẩm đã sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng để thúc đẩy tuyên truyền về vắc-xin.
Ví dụ, một hãng thông tấn uy tín đã trích dẫn lời của các "nhà nghiên cứu" cho rằng vắc-xin cúm mà phụ nữ mang thai sử dụng có thể làm tăng cân nặng khi sinh của trẻ sơ sinh. Hãng này cũng khẳng định rằng phụ nữ mang thai tiêm vắc-xin cúm có nhiều khả năng sinh con đủ tháng hơn.
Tiếp theo là vắc-xin phòng ngừa sinh non?
Cả hai nghiên cứu này đều không sử dụng các giao thức nghiên cứu ngẫu nhiên, có đối chứng giả dược. Vậy làm sao chúng được phép đưa tin? Khi một cơ quan truyền thông có trách nhiệm (lần này là Reuters) đưa ra những tuyên bố như thế này, nhu cầu hoài nghi về những gì bạn đọc đang trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Khi nói về những tuyên bố vô lý, đây là một tuyên bố vô lý khác: Những người dùng thuốc có thành phần statin (thuốc hạ cholesterol) "có nguy cơ tử vong vì bệnh cúm thấp hơn 50 phần trăm"!
Một 'bản tin' chắc chắn được tài trợ bởi các nhà sản xuất thuốc statin, gần đây tuyên bố rằng "các nhà nghiên cứu đã cung cấp thêm bằng chứng cho thấy thuốc hạ cholesterol giúp cơ thể chống lại nhiễm trùng".
Các cuộc điều tra sâu hơn cho thấy không có thử nghiệm lâm sàng nào được tiến hành và cái gọi là kết luận này dựa trên "phân tích" không cần thiết về hồ sơ bệnh án của những cá nhân đã tử vong do nhiễm cúm theo mùa.
Không tính đến bất kỳ biến số nào khác, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng phần lớn bệnh nhân trong "mẫu" của họ đang dùng thuốc statin; chỉ có 3,2 phần trăm không dùng.
Ngược lại, họ tuyên bố rằng chỉ có 2,1% bệnh nhân dùng thuốc statin tử vong. Vì 2,1% ít hơn 3,2% khoảng 50%, họ nói rằng "thuốc statin có thể giải quyết số ca tử vong do cúm mùa"! Một ví dụ điển hình về trò gian lận thống kê nhưng chẳng khác gì những lời tuyên bố hoang đường.
Hãy để tôi minh họa mối quan hệ gần như loạn luân giữa các cơ quan quản lý dược phẩm và các nhà sản xuất thuốc, một điều luôn làm lu mờ các thử nghiệm lâm sàng của thuốc mới. Cơ quan Dược phẩm Châu Âu (EMA) là một cơ quan của Liên minh Châu Âu, chịu trách nhiệm phê duyệt việc bán thuốc trên toàn châu Âu. Nếu EMA được thành lập để bảo vệ sức khỏe cộng đồng nói chung, tại sao họ lại bật đèn xanh cho nhà sản xuất vắc-xin Novartis bán vắc-xin cúm H1N1 Celtura ở châu Âu mặc dù vắc-xin này chỉ được thử nghiệm trên một trăm người?
Trước khi trả lời câu hỏi đó, tôi xin nói thêm một sự thật đáng lo ngại nữa: Cuộc thử nghiệm lâm sàng mà sau này Celtura được bán ở một số nước châu Âu được tiến hành bởi Đại học Leicester và Bệnh viện Đại học Leicester ở Anh và được Novartis tài trợ.
Nếu đào sâu hơn nữa, những vấn đề khác sẽ bắt đầu lộ ra. EMA cũng đã cho hai loại vắc-xin cúm lợn khác là Pandemrix của GlaxoSmithKline và Focetria của Novartis được thử nghiệm cùng lúc.
Với hai phần ba nguồn tài trợ của EMA đến từ các công ty dược phẩm, thật đáng ngạc nhiên khi cả vấn đề an toàn, quy mô mẫu, nhóm đối chứng hay các biện pháp khoa học khác đều không phải là mối quan tâm của một cơ quan cấp phép sử dụng thuốc cho hàng triệu người trên khắp lục địa?
Bạn có biết rằng EMA trả cho các công ty dược phẩm hàng triệu euro tiền 'phí' cho các dịch vụ mà họ thực hiện trong việc đánh giá chính những loại thuốc mà các công ty đó sản xuất không?
Khi các công ty dược phẩm, các bác sĩ tư lợi và giới truyền thông cùng thúc đẩy một chương trình nghị sự, thật khó để không bị tẩy não. Mối liên hệ nguy hiểm này giữa ba nhà quảng bá vắc-xin - một công ty công nghệ vắc-xin, một bác sĩ từ Đại học Columbia và giới truyền thông - đã cùng nhau tạo nên một lập luận mạnh mẽ không chỉ cho vắc-xin H1N1 mà còn cho vắc-xin nói chung vào cuối năm 2009.
Bác sĩ được nhắc đến ở đây chính là Tiến sĩ Mehmet Oz, giáo sư phẫu thuật tim tại Đại học Columbia, một tác giả cực kỳ nổi tiếng và là người quảng bá vắc-xin, người đã xuất hiện trên mọi chương trình trò chuyện lớn trong thời gian bùng phát cúm lợn năm 2009.
Sau khi gây bão trên truyền hình quốc gia, Dr. Oz đã có một phân đoạn về sức khỏe của riêng mình trên chương trình Oprah Winfrey Show cực kỳ nổi tiếng, gần như đã khởi đầu sự nghiệp truyền hình của ông. Sau đó, ông đã ký được một hợp đồng béo bở với Harpo Productions của Winfrey và Sony Pictures Television để phân phối The Dr. Oz Show ra bên ngoài nước Mỹ, và hiện tại nó đã trở thành một chương trình truyền hình ăn khách tại Mỹ.
Tôi luôn dành sự kính trọng và ngưỡng mộ sâu sắc cho Tiến sĩ Oz vì những nỗ lực không ngừng của ông trong việc cung cấp những góc nhìn đa chiều hữu ích về nhiều chủ đề sức khỏe quan trọng cho công chúng. Tuy nhiên, là một bác sĩ nổi tiếng đã lâu, tôi không hiểu tại sao ông lại lợi dụng nỗi lo sợ về dịch cúm lợn năm 2009 để kiếm hàng triệu đô la từ những người dân không hề hay biết.
Ngay sau chương trình "Hỏi Bác sĩ Oz" được quảng cáo rầm rộ trên TV, người ta phát hiện ra vị bác sĩ này sở hữu cổ phiếu đắt giá - 150.000 cổ phiếu của một công ty công nghệ vắc-xin có tên là SIGA Technologies. Công ty này không sản xuất vắc-xin mà nghiên cứu và phát triển các công nghệ được sử dụng trong sản xuất vắc-xin.
Dường như hành động gây rối của Tiến sĩ Oz gần như chắc chắn là nhằm mục đích đẩy giá cổ phiếu của các công ty vắc-xin và các công ty liên quan đến vắc-xin lên cao, điều này sẽ mang lại cho ông ta - và cả họ - một khoản lợi nhuận kha khá. Trong một cuộc phỏng vấn, Tiến sĩ Oz đã nói đùa rằng vợ ông ta không cho con cái tiêm vắc-xin phòng cúm lợn.
Khi ta bắt gặp những trường hợp lừa dối và bất lương như thế này, và những bên liên quan trong một trò chơi nguy hiểm lại cấu kết với nhau, thật khó để phân biệt đâu là sự thật, đâu là hư cấu. Công chúng cả tin và hoảng loạn có thể tin vào những gì họ nghe, đặc biệt là khi họ đang xem "một chuyên gia" về vắc-xin trên một trong những chương trình trò chuyện truyền hình được đánh giá cao nhất của Mỹ.
Đạo đức nghề nghiệp lại một lần nữa bị giáng một đòn nghiêm trọng vào tháng 1 năm 2010, khi phiên điều trần kéo dài 12 năm về hành vi nghề nghiệp của bác sĩ đầu tiên điều tra mối liên hệ giữa vắc-xin sởi, quai bị và rubella (MMR) kết thúc.
Phiên điều trần do Hội đồng Y khoa Tổng quát (GMC), cơ quan cấp phép và quản lý bác sĩ tại Vương quốc Anh, tiến hành đã phán quyết rằng Tiến sĩ Andrew Wakefield đã có hành vi sai trái về chuyên môn.
Chính nghiên cứu của Tiến sĩ Wakefield đã lần đầu tiên chỉ ra mối liên hệ giữa vắc-xin MMR và bệnh tự kỷ, dẫn đến làn sóng phản đối và làm giảm doanh số bán loại vắc-xin được phát triển từ một thập kỷ trước đó.
Mặc dù tuyên bố rõ ràng rằng họ không phán quyết về tính xác thực của kết quả nghiên cứu của Tiến sĩ Wakefield, GMC kết luận rằng phương pháp của bác sĩ này hoàn toàn phi đạo đức. Tiết lộ đáng lên án nhất là Tiến sĩ Wakefield, hiện đang cư trú tại Hoa Kỳ, được các luật sư đại diện cho các bậc cha mẹ tin rằng vắc-xin đã gây hại cho sức khỏe của con cái họ.
Chưa hết sốc, các cuộc điều tra sâu hơn cho thấy Tiến sĩ Wakefield đã dựa trên kết quả nghiên cứu của mình chỉ dựa trên mẫu 12 trẻ em! Hơn nữa, vị bác sĩ này là bác sĩ chuyên khoa tiêu hóa tại Bệnh viện Royal Free ở London và không đủ trình độ để thực hiện các thủ thuật y tế như chọc dò tủy sống, nội soi đại tràng và chụp MRI mà ông đã sử dụng trong nghiên cứu của mình.
Phương pháp thu thập mẫu lâm sàng của Tiến sĩ Wakefield - 12 đứa trẻ - cũng gây sốc không kém. Ông thừa nhận đã hối lộ họ tại tiệc sinh nhật của con trai mình để họ đưa mẫu máu cho cuộc điều tra này!
Tạp chí y khoa Lancet, nơi đã công bố những phát hiện của Tiến sĩ Wakefield vào năm 1998, đã rút lại bài báo của bác sĩ sau khi cuộc điều tra của GMC kết thúc vì bác sĩ (rõ ràng là) đã không tiết lộ chi tiết về phương pháp nghiên cứu của mình vào thời điểm đó.
Vì vậy, nếu nghiên cứu ban đầu của Tiến sĩ Wakefield đã gây ra một trong những cuộc tranh luận lớn nhất trong lĩnh vực tiêm chủng, thì những tiết lộ về hành vi sai trái trong nghề nghiệp của ông lại có tác động vì một lý do hoàn toàn khác.
Nếu Tiến sĩ Wakefield đã bị hối lộ để thực hiện nghiên cứu "mang tính đột phá" của mình, thì còn tất cả những "nghiên cứu mang tính đột phá" khác, những nghiên cứu mang tính đột phá, những cột mốc trong nghiên cứu vắc-xin và nghiên cứu y học nói chung, thì sao? Bao nhiêu trong số đó đã vi phạm quy tắc? Cái nào là xác thực và cái nào là không? Và có bao nhiêu nghiên cứu 'có uy tín' đã được các công ty dược phẩm tài trợ để 'tạo ra' kết quả thúc đẩy vắc-xin mà các công ty này sản xuất hoặc có kế hoạch sản xuất?
Nỗi lo ngại ngày càng tăng rằng nghiên cứu y khoa đang ngày càng thiếu trung thực đã được chứng minh thêm bởi một nghiên cứu do Đại học Edinburgh thực hiện vào tháng 6 năm 2009.
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí PLoS One đã xem xét lại 21 cuộc khảo sát về hành vi sai trái trong khoa học từ năm 1986 đến năm 2005 và phát hiện ra rằng việc làm giả, xuyên tạc và thậm chí bịa đặt các cuộc khảo sát này diễn ra phổ biến hơn mức nghi ngờ.
Trong khi một trong bảy nhà khoa học được khảo sát thừa nhận rằng họ biết các đồng nghiệp của mình đang thao túng kết quả một cách nghiêm trọng, thì 46 phần trăm khẳng định họ biết về những hành vi đáng ngờ của đồng nghiệp.
Một lĩnh vực khác bị bỏ sót là các nghiên cứu dài hạn về vắc-xin mới. Mặc dù các nhà nghiên cứu biết rất rõ (có lẽ vì họ biết) rằng tác dụng phụ của vắc-xin phải mất hàng tháng, thậm chí hàng năm mới xuất hiện, nhưng họ hiếm khi, nếu không muốn nói là chưa bao giờ, tiến hành các nghiên cứu dài hạn để tìm kiếm những tác động bất lợi có thể xảy ra đối với hệ miễn dịch của con người.
Ngoài ra, các nghiên cứu theo dõi hiếm khi được thực hiện trên các quần thể đã tiêm chủng. Hầu hết các nhà nghiên cứu chỉ theo dõi nhóm mục tiêu hoặc một mẫu trong vài tuần để phát hiện các triệu chứng rõ ràng.
Ví dụ, các triệu chứng do vắc-xin gây ra - chẳng hạn như phát ban, viêm khớp, mệt mỏi mãn tính, đau xơ cơ, mất trí nhớ, co giật và các vấn đề về thần kinh - tâm thần có thời gian ủ bệnh dài vì các rối loạn chức năng thần kinh và miễn dịch thường mất một thời gian mới biểu hiện.
Điều tuyệt vời nhất đối với các nhà sản xuất vắc-xin và các công ty dược phẩm nói chung là khả năng miễn dịch toàn diện mà họ được hưởng. Bất kể hậu quả của việc thiếu kiểm soát lâm sàng nghiêm ngặt, thực hành phòng thí nghiệm sai sót và việc thao túng kết quả - và do họ bảo trợ cho các quỹ liên bang, ngân sách và các chiến dịch chính trị - các nhà sản xuất vắc-xin không phải chịu trách nhiệm cho hành vi sai trái của mình.
Nhờ luật liên bang, họ được phép giữ bí mật công thức và phương pháp của mình ngay cả khi phản đối các vụ kiện, điều này đặt ra gánh nặng đáng kể cho nguyên đơn trong việc chứng minh khiếu nại của mình.
Các vụ kiện chống lại các nhà sản xuất vắc-xin được xét xử tại "Tòa án Vắc-xin", một thuật ngữ thông tục để chỉ một tòa án được thành lập theo Đạo luật Quốc gia về Chấn thương do Vắc-xin ở Trẻ em. Tòa án này được thành lập năm 1986 để phân xử hàng loạt khiếu nại chống lại vắc-xin DPT. Trớ trêu thay, các yêu cầu bồi thường lại được tài trợ bằng khoản thuế đánh vào doanh số bán mỗi liều vắc-xin tại Hoa Kỳ.
>>Tiếp: 5.3.6 Nơi Hai thế giới gặp nhau
5.3.4 Trở thành Retro (sao chép ngược): Hội chứng mệt mỏi mãn tính
>>Trước: 5.3.3 AIDS - Virus do con người tạo ra?
Các nhà khoa học thích thuật ngữ chuyên ngành, và các công ty dược phẩm còn thích hơn nữa. Bởi vì một loại virus hay căn bệnh nghe càng đáng ngại thì mọi người càng nhanh chóng hoảng loạn và tìm đến các công ty dược phẩm để "chữa trị".
Một trong những thuật ngữ được các nhà sản xuất vắc-xin ưa chuộng là 'retrovirus', một loại vi-rút được phát hiện ở người vào năm 1981 (hoặc được biến đổi gen trong Chương trình Vi-rút Ung thư Đặc biệt [SVCP]).
Tất cả virus đều cần tế bào chủ để nhân lên. Tuy nhiên, retrovirus lại khiến tế bào chủ mà nó lây nhiễm tự nhân lên. Nó đạt được điều này bằng cách kết hợp vật liệu di truyền của chính nó vào cấu trúc di truyền của tế bào chủ, nhờ đó khi vật chủ sản sinh ra tế bào mới, nó cũng nhân lên nhiều retrovirus hơn.
Làm thế nào nó có thể làm được điều này? Retrovirus là một loại hạt protein RNA sử dụng một enzyme gọi là 'phiên mã ngược' để chuyển đổi RNA của chính nó thành DNA trong tế bào vật chủ mà nó lây nhiễm. DNA sau đó được phiên mã ngược thành RNA, đó là cách retrovirus tự nhân bản chính nó.
Enzym này chỉ có ở retrovirus.
Đây là một quá trình phức tạp nhưng đủ để nói rằng retrovirus có liên quan đến một loạt các rối loạn suy giảm miễn dịch, một tình trạng mà hệ thống miễn dịch bị suy yếu nghiêm trọng. Trong những trường hợp cực đoan, chẳng hạn như HIV, hệ thống miễn dịch dường như tự tấn công chính nó, khiến bệnh nhân không thể chống lại sự tấn công của virus và hàng loạt tác nhân lây nhiễm tiềm ẩn khác.
Retrovirus từ lâu đã được cho là có liên quan đến các bệnh suy nhược nghiêm trọng, đặc biệt là các bệnh về hệ miễn dịch. Các nhà sản xuất vắc-xin bị cáo buộc sử dụng vũ khí "retrovirus" để gieo rắc bệnh tật, tức là đầu tiên, họ khiến mọi người tin rằng một loại virus nào đó gây ra một căn bệnh cụ thể, rồi sau đó mới cung cấp vắc-xin để bảo vệ họ khỏi căn bệnh đó.
Trong cuốn sách "Kết thúc Huyền thoại AIDS" (Ending the AIDS Myth), tôi chỉ ra rằng sự hiện diện của những retrovirus này ở những người có hệ miễn dịch suy yếu nghiêm trọng chỉ là một mối tương quan và không chứng minh rằng các bệnh AIDS được chẩn đoán thực sự là do retrovirus gây ra. Ngược lại, tôi chỉ ra rằng hàng chục tình trạng bệnh, được gọi là AIDS, thực sự là nguyên nhân dẫn đến sự phân hủy các phân tử RNA thành các retrovirus được gọi là HIV 1, HIV 2, HIV 3, v.v.
Tôi chắc chắn không phải là người duy nhất tin rằng HIV không phải là nguyên nhân gây ra bệnh AIDS.
Năm 1983, nhà khoa học người Pháp nổi tiếng thế giới, Tiến sĩ Luc Montagnier, đã phát hiện ra HIV và nhận Giải Nobel Sinh lý/Y học năm 2008. Montagnier hiện là giám đốc của tổ chức mà ông đã góp phần sáng lập: Quỹ Thế giới Nghiên cứu và Phòng ngừa AIDS, một tổ chức thuộc UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc). Ông đã nhiều lần khẳng định rằng HIV không thể tự gây ra AIDS. Thay vì cố gắng tiêu diệt HIV (vốn không thể gây ra AIDS) bằng thuốc và vắc-xin đắt tiền và tiềm ẩn nguy hiểm, Montagnier khuyến nghị các biện pháp vệ sinh tốt, dinh dưỡng cân bằng, nước uống sạch và các chất chống oxy hóa như chiết xuất đu đủ lên men để phòng ngừa và chữa khỏi bệnh AIDS.
Trong bộ phim tài liệu House of Numbers năm 2009, có thể xem tại www.houseofnumbers.com , Tiến sĩ Montagnier phát biểu: "Chúng ta có thể tiếp xúc với HIV nhiều lần mà không bị nhiễm mãn tính. Hệ thống miễn dịch của chúng ta sẽ loại bỏ virus trong vòng vài tuần, nếu chúng ta có hệ miễn dịch tốt." Đây là cách bất kỳ người khỏe mạnh nào đối phó với bất kỳ loại virus nào. Nói cách khác, HIV là một loại virus vô hại, không gây hại cho bất kỳ ai, trừ khi hệ miễn dịch bị suy yếu do các yếu tố khác, chẳng hạn như nước uống bị ô nhiễm, vệ sinh cá nhân kém, dinh dưỡng kém, stress oxy hóa, v.v.
Tôi đề nghị chúng ta hãy học hỏi từ nhà virus học hàng đầu thế giới. Các chuyên gia như ông ấy biết rằng chính việc áp dụng các biện pháp y tế đơn giản mới luôn dẫn đến sự suy giảm của các dịch bệnh do virus, chứ không phải các chiến dịch tiêm chủng. Montagnier tin rằng đây cũng là cách tiếp cận tốt nhất đối với các dịch bệnh khác, bao gồm cả sốt rét. Những gì áp dụng cho HIV/AIDS chắc chắn cũng áp dụng cho các bệnh được cho là do virus gây ra khác.
Một trong những căn bệnh hiện đang được cho là do retrovirus gây ra là Hội chứng Mệt mỏi Mãn tính (CFS). Rối loạn này đặc trưng bởi tình trạng mệt mỏi cơ bắp nghiêm trọng và cảm giác mệt mỏi toàn thân, lan tỏa.
Cho đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa thể chẩn đoán nguyên nhân gây ra CFS, nhưng người ta tin rằng đây là một rối loạn liên quan đến rối loạn chức năng miễn dịch. Bệnh nhân mắc chứng rối loạn này có nồng độ cytokine lưu hành trong máu cao hơn nhiều, số lượng tế bào lympho T thay đổi và độc tính tế bào diệt tự nhiên thấp. Điều này khiến họ dễ bị nhiễm nhiều loại mầm bệnh khác nhau và bị ảnh hưởng bởi các triệu chứng bệnh mà chúng gây ra.
Tuy nhiên, gần đây, một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra một loại retrovirus được gọi là "virus liên quan đến virus gây bệnh bạch cầu ở chuột xenotropic" hay XMRV. Loại retrovirus này cũng có liên quan đến ung thư tuyến tiền liệt và bệnh nhân mắc hội chứng mệt mỏi mãn tính (CFS).
Kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science vào tháng 10 năm 2009 tuyên bố rằng virus được tìm thấy ở 67% bệnh nhân CFS nhưng chỉ ở 4% dân số nói chung. Điều này đã dẫn đến một loạt các bài báo trích dẫn nghiên cứu và cho rằng CFS có thể do XMRV gây ra và vắc-xin có thể đang được phát triển. Khi những bài báo như thế này (thường được các nhà sản xuất thuốc và vắc-xin thúc đẩy) lan truyền, mọi người có xu hướng bỏ qua yếu tố quan trọng "có thể", vốn được các hãng truyền thông sử dụng như một lời bào chữa kinh điển.
Biết rõ rằng công chúng thường ít chú ý đến những dấu hỏi và chữ "có thể" trong các báo cáo này, giới truyền thông thường thoát tội với những tuyên truyền sai sự thật về mối quan hệ nhân quả giữa tác nhân gây bệnh và bệnh tật.
Hội chứng mệt mỏi mãn tính (CFS) là một căn bệnh liên quan đến hệ miễn dịch bị suy yếu nghiêm trọng, và nhiều bệnh nhân cũng mắc ung thư tuyến tiền liệt cùng với một loạt các bệnh khác. Vấn đề của CFS là nó có thể không phải là một rối loạn đơn lẻ. Các nhà nghiên cứu tin rằng nó có thể là một tập hợp các bệnh lý có liên quan với nhau theo một cách nào đó để tạo ra một tập hợp các triệu chứng được phân loại là CFS. Vậy thì, làm thế nào một loại virus duy nhất có thể liên quan đến một căn bệnh mà hiểu biết còn rất ít?
Virus Epstein-Barr, hay EBV, từng được cho là có liên quan đến CFS. Tuy nhiên, khoa học vẫn còn một chặng đường dài để hiểu rõ về CFS, và nhiều nhà nghiên cứu kể từ đó đã giảm thiểu mối quan hệ nhân quả giữa EBV và CFS. Tuy nhiên, việc vội vàng kết luận và ngay lập tức đưa ra "nguyên nhân" gây bệnh dường như là đặc quyền của giới truyền thông và các nhà sản xuất vắc-xin.
Cũng giống như nghiên cứu của Hoa Kỳ về bệnh nhân CFS đã gây chấn động, một nghiên cứu khác, lần này được thực hiện tại Vương quốc Anh, đã phát hiện ra rằng không có bệnh nhân CFS nào trong số 186 bệnh nhân được nghiên cứu có kết quả xét nghiệm dương tính với XMRV.
Nghiên cứu do các nhà nghiên cứu tại Đại học Hoàng gia London và Đại học King's London thực hiện cho thấy khoa học biết rất ít về CFS và tầm quan trọng của việc chúng ta phải thận trọng khi tin vào những gì truyền thông đưa tin.
Hãy lấy ví dụ về HPV đã thảo luận ở trên. Ung thư cổ tử cung do nhiều yếu tố gây ra. Một số nhà nghiên cứu cho rằng nó hoàn toàn không phải do virus gây ra. Vậy mà nhà sản xuất vắc-xin Merck lại đang cố gắng (quá sức?) để thuyết phục công chúng rằng HPV là nguyên nhân duy nhất gây ra loại ung thư này và họ có vắc-xin để phòng ngừa!
Câu hỏi của tôi là tại sao không một nhà nghiên cứu nào, cả các công ty dược phẩm lẫn chính phủ, dù chỉ một chút, quan tâm đến việc điều tra bất cứ thứ gì khác ngoài vi trùng có thể làm suy yếu hệ miễn dịch của con người? Đây là một câu hỏi tu từ mà câu trả lời là rõ ràng. Sẽ không kiếm được nhiều tiền khi nói với mọi người rằng họ cần phải thoát khỏi tình trạng thiếu hụt vitamin D, căng thẳng oxy hóa, vệ sinh kém, suy giảm chất dinh dưỡng và tiếp xúc quá nhiều với độc tố, bao gồm cả những chất có trong vắc-xin và thuốc.
Chúng ta biết rằng chỉ riêng việc tiếp xúc với kim loại nặng cũng có thể gây ra các triệu chứng mệt mỏi mãn tính, tổn thương não và chứng mất trí nhớ. Tại sao lượng nhôm trong các con sông và suối ở Hoa Kỳ hiện nay cao gấp 50.000 lần so với quy định của chính phủ? Hàng triệu tấn nhôm oxit và các khoáng chất độc hại khác như bari đang bị các hãng hàng không thương mại và máy bay chiến đấu thải ra để tạo thành vệt khói hóa học (chemtrails), được cho là nhằm mục đích thay đổi khí hậu và bảo vệ chúng ta khỏi hiện tượng nóng lên toàn cầu. Thật đáng kinh ngạc khi tôi vẫn tìm thấy những người khỏe mạnh ở đất nước này!
Và, theo một báo cáo gần đây của CNN, 45 triệu người Mỹ đang sống trong cảnh nghèo đói và bị suy dinh dưỡng nghiêm trọng. Mọi bác sĩ đều biết rằng suy dinh dưỡng gây tổn hại đến hệ miễn dịch. Việc chỉ đưa những người nghèo khó hiện không đủ khả năng chi trả bảo hiểm y tế vào một chương trình chăm sóc sức khỏe toàn dân hoàn toàn không giúp giải quyết đúng đắn nguyên nhân gây ra tình trạng sức khỏe của họ. Cách tiếp cận này chỉ làm đầy túi tiền của những kẻ biết cách tạo ra thêm hàng triệu bệnh nhân bằng tiền thuế của người dân và đẩy đất nước lún sâu hơn vào vực thẳm nợ quốc gia không thể đảo ngược.
>>Tiếp: 5.3.5 Nghiên cứu vắc-xin: Giả mạo!
5.3.3 AIDS - Virus do con người tạo ra?
>>Trước: 5.3.2 Thử nghiệm ở Châu Phi
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2010, các nhà khoa học đã công bố rằng họ đã phát triển thành công một loại tinh thể có thể cho họ thấy cách thức hoạt động của một loại enzyme liên quan đến Virus gây suy giảm miễn dịch ở người hay HIV để giúp virus này tự nhân lên bên trong cơ thể.
Họ khẳng định rằng bước đột phá này sẽ giúp họ tạo ra những loại thuốc điều trị HIV tốt hơn, đặc biệt là những loại thuốc do Merck và Gilead Sci-ences sản xuất có khả năng ngăn chặn loại enzyme này.
Những bản tin như thế này thường xuyên được các phương tiện truyền thông đưa tin, khiến người dân cả tin và sợ hãi tin rằng các nhà sản xuất thuốc và vắc-xin đang ngày càng tiến gần hơn đến việc bảo vệ và cứu họ khỏi "những căn bệnh đáng sợ".
Khi những tuyên bố như trên đến từ phương tiện truyền thông, chúng thường có một độ tin cậy nhất định, đó là lý do tại sao các hãng truyền thông lại được các công ty dược phẩm đa quốc gia ưa chuộng.
Sự thật phũ phàng hơn nhiều so với những gì truyền thông muốn chúng ta tin. Theo một số nhà nghiên cứu, được mệnh danh là những người theo thuyết âm mưu, một số bệnh lây lan qua virus và các chương trình tiêm chủng có thể là do con người tạo ra. Trong số đó, một số người cho rằng có HIV, nguyên nhân gây ra Hội chứng Suy giảm Miễn dịch Mắc phải, hay AIDS.
Liệu virus HIV có được biến đổi gen trong các phòng thí nghiệm ở Mỹ vào những năm 1960 và 1970 không? Liệu virus có lây nhiễm từ khỉ và tinh tinh ở Châu Phi sang Mỹ không? Liệu virus có tồn tại trong cơ thể người hàng thập kỷ trước khi xuất hiện vào năm 1981 không?
Những gì tôi sắp trình bày, nói một cách vắn tắt, có thể đọc giống như một câu chuyện trinh thám y khoa, và những kết luận này chỉ được hỗ trợ bởi bằng chứng gián tiếp. Nhưng lý do tôi đề cập đến chúng là để minh họa rằng nghiên cứu khoa học - bao gồm nghiên cứu về virus và vắc-xin - được phân loại là "tuyệt mật" như trường hợp của HIV.
Tại sao một thứ được cho là cải thiện sức khỏe cộng đồng lại bị che giấu? Chính phủ không muốn chúng ta biết điều gì? Và tại sao? Có một khoảng cách rất lớn giữa thực tế và thực tế được nhận thức, điều này làm nảy sinh những khả năng đáng sợ khi chúng ta giao phó sức khỏe, hạnh phúc và thậm chí cả tính mạng của mình cho các nhà hoạch định chính sách và các công ty dược phẩm vì lợi nhuận.
Cũng đúng là một số nhóm đối tượng nhất định - chẳng hạn như binh lính - đã bị sử dụng trong các thí nghiệm trên người để thử nghiệm vắc-xin mà không có sự đồng ý hay hiểu biết của họ. Điều này, cùng với động cơ thầm kín của những người sản xuất vắc-xin, khiến việc tiêm chủng trở thành một đề xuất rất nguy hiểm.
Quay trở lại cuộc thảo luận của chúng ta về HIV, đã có nhiều suy đoán sâu sắc về nguồn gốc của loại virus này, khiến một số nhà nghiên cứu tin rằng nó được nuôi cấy trong các phòng thí nghiệm ở Mỹ và lây nhiễm sang nam giới đồng tính thông qua vắc-xin viêm gan B vào năm 1978.
Ba năm sau chiến dịch tiêm vắc-xin viêm gan B cho một số nhóm người nhất định, ca nhiễm AIDS đầu tiên trên thế giới xuất hiện ở Manhattan vào năm 1981. Các trường hợp nhiễm AIDS cũng sớm được báo cáo ở Los Angeles và San Francisco.
Nhưng nếu nó được tạo ra trong phòng thí nghiệm, thì nó được biến đổi gen ở đâu và bởi ai? Những người ủng hộ lý thuyết này chỉ trích các cơ quan chính phủ như Viện Y tế Quốc gia, CDC, Viện Dị ứng và Bệnh Truyền nhiễm Quốc gia, và các công ty dược phẩm lớn bao gồm Merck, Sharp & Dohme, và Abbott Laboratories, những bên đã được nêu tên là những người tham gia vào một số thí nghiệm tuyệt mật được tiến hành trên linh trưởng và các loài động vật khác trong 13 năm trước khi ca AIDS đầu tiên được báo cáo.
Các cơ quan và công ty này đều có liên quan đến Chương trình Ung thư do Virus đặc biệt (SVCP) của chính phủ Liên bang từ năm 1964 đến năm 1977. SVCP, có trụ sở chính tại Viện Ung thư Quốc gia ở Maryland, có mục đích nghiên cứu ung thư và liên quan đến hàng trăm nghìn loài linh trưởng và các loài động vật khác được tiêm các loại vật liệu biến đổi gen gây ung thư khác nhau tại các trung tâm nghiên cứu trên khắp Hoa Kỳ và các quốc gia tham gia khác.
Năm 1971, sau khi Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon tuyên bố "Cuộc chiến chống Ung thư", SVCP được tiếp quản bởi các phòng thí nghiệm chiến tranh sinh học của Quân đội Hoa Kỳ tại Fort Detrick gần đó. Các phòng thí nghiệm được đổi tên thành Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Frederick.
Trong chương trình SVCP, các nhà khoa học đã nghiên cứu các loại virus (biến đổi gen) gây ra các bệnh giống AIDS ở khỉ và tinh tinh, dẫn đến các đợt bùng phát lẻ tẻ tại các trung tâm linh trưởng trên khắp Hoa Kỳ. Người ta nghi ngờ rằng những đợt bùng phát này là kết quả của việc truyền virus thử nghiệm giữa các loài động vật trong khuôn khổ nghiên cứu.
Một số người tin rằng đây chính là nguồn gốc của một số loại virus và retrovirus gây ung thư ở động vật và ức chế miễn dịch giống AIDS đã xuất hiện kể từ đó.
Liệu những tác nhân gây bệnh này có được cố ý tiêm vào quần thể người (như những người theo thuyết âm mưu tuyên bố) hay vô tình thoát ra khỏi phòng thí nghiệm thông qua vật liệu di truyền bị ô nhiễm được sử dụng để sản xuất vắc-xin viêm gan B hay không vẫn chưa được biết.
Câu hỏi: Tại sao Bộ Tư pháp Hoa Kỳ lại nắm giữ tài sản liên quan đến vấn đề sức khỏe cộng đồng như hồ sơ liên quan đến chiến dịch tiêm vắc-xin viêm gan B ở Manhattan và các thành phố khác của Hoa Kỳ vào năm 1978, chiến dịch tiêm chủng này bị nghi ngờ là nguyên nhân dẫn đến các ca mắc AIDS đầu tiên?
>>Tiếp: 5.3.4 Trở thành Retro (sao chép ngược): Hội chứng mệt mỏi mãn tính
5.3.2 Thử nghiệm ở Châu Phi
>>Trước: 5.3.1 Tranh cãi về HPV
Uganda: Các cơ quan y tế công cộng toàn cầu là những người giám sát sức khỏe cộng đồng, cứu sống hàng triệu sinh mạng trên hành tinh, với hầu hết các mục tiêu của họ đều được thực hiện ở các nước nghèo và đang phát triển. Đó là thông điệp mà truyền thông đã truyền tải thành công đến mức hầu hết chúng ta đều tin là đúng. Nhưng có những âm mưu ẩn giấu, thường được che giấu. Nhưng thỉnh thoảng, những ý định được gọi là cao cả của họ lại bị phơi bày, phơi bày một thực tế gây sốc.
Trong số đó có một mạng lưới lừa đảo bị một phát thanh viên người Châu Phi vạch trần khi phát hiện ra rằng việc tiêm chủng hàng loạt bằng OPV ở Uganda chắc chắn không nhằm mục đích cứu trẻ em khỏi căn bệnh bại liệt gây suy nhược này.
Việc tiêm vắc-xin OPV - sử dụng vi-rút sống - bắt đầu ở Uganda vào năm 1963, một quốc gia chưa từng có tiền sử mắc bệnh bại liệt trong khi chính phủ Uganda triển khai tiêm chủng hàng loạt theo yêu cầu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) vào năm 1977.
Kihura Nkuba, phát thanh viên, từng du học ở Anh, đã trở về Uganda để mở một đài phát thanh ở đó. Nhưng những trải nghiệm của ông với người dân Uganda đã hé lộ một câu chuyện gây sốc. Hàng trăm trẻ em Uganda được tiêm chủng trong các chiến dịch tiêm chủng do chính phủ thực hiện đã chết vì bệnh bại liệt.
Nói cách khác, việc ép trẻ em uống vắc-xin OPV đã gây ra một căn bệnh chưa từng xuất hiện ở Uganda cho đến khi vắc-xin này được đưa vào sử dụng vào những năm 1960.
Nkuba cho biết các bậc phụ huynh, những người đã liên hệ giữa vắc-xin và cái chết của con mình, sẽ trốn trong bụi rậm châu Phi khi các quan chức chính phủ và tình nguyện viên y tế đến tiêm vắc-xin OPV. Trong một số trường hợp, trẻ em bị lôi ra khỏi nơi ẩn náu để tiêm chủng.
Phải đến năm 2002, mọi chuyện mới vỡ lẽ khi Nkuba chỉ ra mối liên hệ giữa việc ngừng sử dụng vắc-xin bại liệt uống (OPV) tại Hoa Kỳ và việc vắc-xin này được đưa vào sử dụng tại Uganda. Vắc-xin OPV, do Tiến sĩ Albert Sabin phát triển vào những năm 1950 và sử dụng virus bại liệt sống, đã bị cấm sử dụng ở Mỹ vì người ta quan sát thấy nó vô tình gây ra bệnh cho người được tiêm vắc-xin. Sau đó, Hoa Kỳ quay lại sử dụng Virus bại liệt bất hoạt (IPV).
Thay vì loại bỏ những loại vắc-xin trị giá hàng triệu đô la, những liều vắc-xin OPV vô dụng nhưng nguy hiểm này lại được ép buộc cho trẻ em ở Uganda uống!
Nkuba nhận ra một sự thật đáng kinh ngạc khác rằng vắc-xin khi được tiêm tại Hoa Kỳ bị chống chỉ định sử dụng cho các gia đình có tiền sử nhiễm HIV. Nguyên nhân là do vi-rút sống được sử dụng trong OPV gây ra tình trạng gọi là "rò rỉ vi-rút". Điều này xảy ra, như đã giải thích trước đó, khi một người được tiêm vắc-xin thực sự thải vi-rút qua niêm mạc, phân và các dịch cơ thể khác trong một khoảng thời gian ngay sau khi tiêm.
Tất nhiên, OPV không được khuyến cáo sử dụng trong các gia đình có người bị suy giảm miễn dịch. Nhưng thực tế này cũng không được áp dụng ở Uganda, nơi HIV lan tràn, và thông tin này cũng không được phổ biến rộng rãi trong cộng đồng. Thảm họa mà nó gây ra thật khó mà tưởng tượng nổi.
Nkuba đã công khai những quan sát của mình về thảm họa tàu OPV trên đài phát thanh của mình và sau đó bị truy đuổi và đàn áp. Không có gì ngạc nhiên khi đài phát thanh của ông cũng bị chính phủ Uganda đóng cửa, với cáo buộc công khai rằng chính phủ này đã thực hiện hành vi giết người hàng loạt, thông đồng với WHO, UNICEF, Hiệp hội Viện trợ Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) và CDC.
Nigeria: Thật dễ dàng để sử dụng một quốc gia dễ bị tổn thương - nơi tỷ lệ mù chữ cao, nơi bệnh tật hoành hành và nơi các cơ quan toàn cầu tự coi mình là cứu tinh của người dân - làm phòng thí nghiệm trên con người.
Giống như Uganda, Nigeria là một quốc gia khác mà các cơ quan y tế toàn cầu bị cáo buộc lạm dụng lòng tin của người dân, và tệ hơn nữa là phạm tội diệt chủng. Điều này đã gây ra ba đòn giáng mạnh cho quốc gia châu Phi này.
Đất nước này đã chứng kiến sự bùng phát nghiêm trọng của bệnh bại liệt, thậm chí là tử vong, kể từ khi các cơ quan y tế phương Tây bắt đầu chiến dịch tiêm chủng OPV hàng loạt vào năm 2002.
Một năm sau khi chiến dịch bắt đầu, chiến dịch đã bị dừng lại sau khi người dân địa phương và giáo sĩ Hồi giáo cáo buộc rằng vắc-xin có chứa thành phần khiến người tiêm bị vô sinh.
WHO đã nối lại chương trình tiêm chủng, lần này "mạnh mẽ" hơn vào năm 2006, nhằm mục đích bao phủ càng nhiều người càng tốt. Nhưng ngay sau đó, Nigeria đã chứng kiến đợt bùng phát bại liệt tồi tệ nhất từ trước đến nay, khiến khoảng 60 trẻ em bị liệt trong giai đoạn 2007-2008 và hơn 120 trẻ em vào năm 2009.
Chuyện gì đã xảy ra ở Nigeria? Trong một bí mật khiến CDC Hoa Kỳ phải chịu sự bẽ bàng và chỉ trích trên toàn thế giới, dịch bệnh ở Nigeria cuối cùng đã được chẩn đoán là do vắc-xin gây ra. Vắc-xin bại liệt được tiêm vào năm 2002 đã dẫn đến sự phát triển của một chủng đột biến hiện đang gây bệnh ở trẻ em khỏe mạnh chưa được tiêm vắc-xin trước đó.
Làm sao điều này có thể xảy ra? "Lòng nhân từ" của các cơ quan y tế phương Tây đã đẩy Nigeria vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Trẻ em hoặc nhiễm bại liệt trực tiếp từ OPV, hoặc bị bỏ mặc vì không chịu tiêm chủng bằng loại vắc-xin lỗi!
Hàm ý ở đây là để được bảo vệ khỏi virus bại liệt đột biến, trẻ em Nigeria đáng lẽ phải được tiêm chủng bằng một loại vắc-xin lỗi. Tất cả chỉ vì WHO quyết định "hủy bỏ" một loại vắc-xin đã bị cấm ở Hoa Kỳ.
Tại sao cơ quan này không sử dụng IPV đang được sử dụng ở Hoa Kỳ? Thứ nhất, nó đã tiết kiệm cho nhà sản xuất vắc-xin hàng triệu đô la khi không phải hủy hàng triệu liều. Thứ hai, OPV có giá thành rẻ. Và thứ ba, OPV có thể dễ dàng được sử dụng bởi nhân viên y tế và tình nguyện viên, chứ không nhất thiết phải là bác sĩ. Điều này lý giải tại sao loại vắc-xin lỗi này lại phổ biến trong các nỗ lực tiêm chủng đại trà ở các nước Thế giới thứ Ba.
Nhưng điều này cũng khiến WHO rơi vào một tình thế tiến thoái lưỡng nan khác. Các chương trình tiêm chủng ở Nigeria trước đây nhắm vào virus bại liệt tuýp 2, nhưng do đột biến gen, các đợt bùng phát sau năm 2007 lại do chủng tuýp 1 gây ra!
Để che đậy sai sót và đảm bảo không bỏ sót bất kỳ chủng virus bại liệt nào đã biết, các chương trình tiêm chủng ở Nigeria kể từ đó đã bao gồm hai đợt tiêm chủng nhắm vào các loại virus bại liệt 1, 2 và 3! Liệu có thể có một sự hỗn loạn lớn hơn không?
Than ôi, Nigeria không phải là quốc gia duy nhất bị ảnh hưởng bởi sai sót của vắc-xin OPV. Không dưới 12 quốc gia đã báo cáo các trường hợp bại liệt do vắc-xin gây ra trong thập kỷ qua. Trong thời gian này, 10 tỷ liều vắc-xin OPV lỗi đã được tiêm cho trẻ em ở các nước đang phát triển, bao gồm cả các đợt bùng phát ở Cộng hòa Dominica và Haiti vào năm 2002.
>>Tiếp: 5.3.3 AIDS - Virus do con người tạo ra?
5.3 Phần III: TOÀN THẾ GIỚI LÀ PHÒNG THÍ NGHIỆM
>>Trước: 5.2.6 Vắc-xin được “tăng áp”
Vậy chính xác thì trong lọ thuốc đó có gì? Đó là một câu hỏi mà lịch sử đã trả lời, quá thường xuyên, bằng những chi tiết gây sốc. Một trong số đó là sự việc xảy ra vào tháng 1 năm 2010, khi một nhà nghiên cứu đã có một khám phá "mang tính đột phá" về vắc-xin MMR bị mất uy tín vì hành vi sai trái trong công việc.
Sau đó, còn có mạng lưới lừa đảo che đậy (mặc dù thỉnh thoảng vẫn có một số chi tiết lọt qua) những vụ lừa đảo vắc-xin biến những giọt vắc-xin "cứu sống" nhỏ bé đó thành vũ khí có khả năng gây chết người.
Và không kém phần quan trọng, vẫn còn nhiều dấu hỏi về cách các chính phủ phương Tây cố gắng tiêm chủng cho toàn bộ dân số hoặc một bộ phận dân số để họ tuân theo.
Trong phần này, chúng ta sẽ khám phá một số vấn đề này đồng thời minh họa cách những điều sai sự thật được chuyển đổi một cách cẩn thận và thuận tiện thành 'sự thật khoa học' để phù hợp với lợi nhuận và chương trình nghị sự chính trị của nhiều bên liên quan trong lĩnh vực vắc-xin.
5.3.1 Tranh cãi về HPV
Bạn còn nhớ vụ bê bối liên quan đến "tiền bẩn" bị phanh phui ở Texas năm 2007 không? Thống đốc Rick Perry khi đó đã ra lệnh vì lợi ích sức khỏe rằng tất cả nữ sinh lớp sáu phải được tiêm vắc-xin phòng ngừa vi-rút gây u nhú ở người (HPV) để ngăn ngừa ung thư cổ tử cung.
Đây là một lệnh đã bỏ qua cơ quan lập pháp của tiểu bang (Xem Chương 5: Khối lượng tới hạn), và nỗ lực của thống đốc nhằm ép trẻ em tiêm vắc-xin đã gây ra sự phẫn nộ trong các bậc cha mẹ cũng như các nhóm giám sát và dân quyền.
Chẳng bao lâu sau, "bí mật bẩn thỉu" của Perry bị lộ - quyết định này có thể giúp nhà sản xuất vắc-xin HPV - Merck - kiếm được hàng triệu đô la, những người đã tặng Perry một khoản tiền lớn cho chiến dịch chính trị của ông.
Mối liên hệ không dừng lại ở đó. Trong một chuỗi sự kiện sặc mùi hối lộ và nhiều thủ đoạn che đậy khác, người ta đã tiết lộ rằng chánh văn phòng của thống đốc là một nhân viên cấp cao của Merck khi thống đốc đang thúc đẩy vắc-xin HPV. Với áp lực ngày càng tăng lên Perry, Cơ quan Lập pháp Texas cuối cùng đã thông qua một đạo luật hủy bỏ lệnh của thống đốc.
Thật dễ dàng để tin vào những lời lẽ chính trị bóng bẩy chỉ vì chúng ta đã bị tẩy não ngay từ khi còn trong bụng mẹ rằng vắc-xin tốt cho sức khỏe. Nếu bí mật về HPV không được phát hiện, hàng ngàn học sinh lớp sáu đã được tiêm vắc-xin bằng một hỗn hợp hóa chất đã được chứng minh hết lần này đến lần khác là gây tranh cãi.
Điều thú vị là vắc-xin HPV gây tranh cãi ở Texas là Gardasil, được FDA chấp thuận vào tháng 6 năm 2006, chưa đầy 12 tháng trước khi Thống đốc Perry tiến hành chiến dịch tiêm chủng bắt buộc.
Không cần phải nói, việc tiêm vắc-xin này cho tất cả nữ sinh lớp sáu ở Texas sẽ tạo ra một thị trường tiềm năng cho Merck.
Không có gì ngạc nhiên khi Gardasil liên tục gây tranh cãi, khi nhà sản xuất khẳng định nó có khả năng bảo vệ chống lại bốn chủng HPV gây ung thư cổ tử cung và mụn cóc sinh dục. Theo CDC, tính đến ngày 1 tháng 9 năm 2009, 26 triệu liều Gardasil đã được phân phối trên khắp Hoa Kỳ.
CDC cũng tuyên bố rằng cho đến thời điểm đó, VAERS đã nhận được hơn 15.000 báo cáo về các sự kiện bất lợi, trong đó 7 phần trăm là nghiêm trọng.
Hơn nữa, đây chỉ là những số liệu thống kê lạnh lùng khi so sánh với các biến cố nghiêm trọng liên quan đến vắc-xin, và trong thời gian ngắn kể từ khi được phê duyệt, vắc-xin này đã được chứng minh là có liên quan đến các trường hợp phụ nữ trẻ tử vong chỉ vài giờ sau khi tiêm. Vắc-xin này cũng bị nghi ngờ gây ra cục máu đông và đột quỵ, đồng thời có liên quan đến Hội chứng Guillain-Barré, một rối loạn hiếm gặp và suy nhược của hệ thần kinh, trong đó các dây thần kinh bị viêm và cũng gây liệt.
Một số nhóm lợi ích công cộng tuyên bố rằng họ đã thu thập đủ bằng chứng để liên hệ vắc-xin HPV của Merck với 18 ca tử vong, trong đó có 11 ca xảy ra chưa đầy một tuần sau khi tiêm vắc-xin. Sảy thai cũng thường xuyên được ghi nhận ở những phụ nữ đã tiêm loại vắc-xin gây tranh cãi này.
Theo một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Hiệp hội Y khoa Canada vào tháng 1 năm 2009, các nhà nghiên cứu tại Úc đã phát hiện ra rằng Gardasil gây ra phản ứng dị ứng nghiêm trọng - hay còn gọi là phản vệ - có thể dẫn đến tử vong trong một số trường hợp. Nghiên cứu kết luận rằng vắc-xin này có khả năng gây ra phản ứng như vậy ở phụ nữ trẻ cao gấp 5 đến 26 lần so với các loại vắc-xin khác được tiêm cho cùng nhóm độ tuổi.
Chính phủ liên bang Hoa Kỳ cuối cùng đã đưa ra cảnh báo về vắc-xin này vào tháng 7 năm 2009, khi VAERS công bố báo cáo nêu rằng vắc-xin Gardasil có liên quan đến các phản ứng phụ cao gấp 400 lần so với vắc-xin chống viêm màng não được tiêm cho phụ nữ cùng nhóm tuổi.
Tính đến ngày 28 tháng 9 năm 2010, Hệ thống Báo cáo Biến cố Bất lợi Vắc-xin (VAERS) đã ghi nhận hơn 18.000 biến cố bất lợi liên quan đến Gardasil, bao gồm ít nhất 65 trường hợp tử vong. Rõ ràng, số ca chấn thương do vắc-xin đang tăng nhanh. Và đây chỉ là những trường hợp được báo cáo, ước tính chiếm khoảng 1 đến 10 phần trăm tổng số ca.
Báo cáo của chính phủ cũng khuyến nghị Quốc hội "điều tra xem vắc-xin này được phê duyệt nhanh như thế nào khi chưa có dữ liệu an toàn trên trẻ em gái dưới 17 tuổi". Do đó, báo cáo đặt ra một vấn đề đạo đức nghiêm trọng: Xét đến việc Gardasil chỉ được thử nghiệm trên phụ nữ trưởng thành, Thống đốc Perry có quyền đạo đức nào để ra lệnh tiêm chủng bắt buộc cho học sinh lớp sáu bằng loại hóa chất gây chết người và đôi khi gây tử vong này?
Với hàng núi bằng chứng chống lại loại vắc-xin này, Gardasil lại phải hứng chịu thêm một đòn nữa, lần này là từ chính nhà nghiên cứu chính trong nhóm thực hiện các thử nghiệm lâm sàng cho Merck. Trong một lời thú nhận, sau khi bị hãng dược phẩm khổng lồ này rút lại lời khai, nhà nghiên cứu này thừa nhận rằng vắc-xin mất hiệu lực sau 5 năm sử dụng. Không có gì ngạc nhiên khi Merck vẫn đang bán vắc-xin với giá 400 đô la một liều!
Hơn nữa, nghiên cứu độc lập cho thấy HPV tự nhiên đào thải khỏi cơ thể trong vòng hai năm sau khi nhiễm ở 70 đến 90% trường hợp. Nếu hệ miễn dịch có thể tự đào thải virus và thậm chí bảo vệ cơ thể khỏi các đợt tấn công trong tương lai, tại sao phụ nữ lại cần tiêm vắc-xin phòng ngừa HPV ngay từ đầu?
Bước ngoặt cuối cùng trong câu chuyện về Gardasil xuất phát từ một diễn biến vào tháng 10 năm 2009. Đây là một ngày trọng đại đối với Merck vì FDA đã phê duyệt loại vắc-xin này để ngăn ngừa mụn cóc sinh dục ở bé trai.
Không phải ngẫu nhiên mà thông báo của nhà sản xuất vắc-xin được đưa ra chưa đầy một ngày sau khi đối thủ GlaxoSmithKline tuyên bố rằng FDA đã phê duyệt vắc-xin HPV của riêng họ để phòng ngừa ung thư cổ tử cung!
Tất cả dữ liệu tôi trình bày ở trên đều đặt ra một số câu hỏi nghiêm trọng về đạo đức: Động cơ của ít nhất một nhà sản xuất trong trường hợp của một loại vi-rút (trong trường hợp này là HPV) đã được vạch trần rõ ràng là vì lợi nhuận mà không quan tâm đến mạng sống của những phụ nữ trẻ bị dụ tiêm vắc-xin.
Hy vọng rằng, những diễn biến mới nhất về Gardasil sẽ là lời cảnh tỉnh cho các bậc phụ huynh và con cái họ, để họ không dễ dàng chấp nhận những loại thuốc thử nghiệm chưa được chứng minh như Gardasil, vốn chưa bao giờ được thử nghiệm với giả dược thực sự. Chúng ta chắc chắn không thể trông cậy vào FDA để bảo vệ mình khỏi những âm mưu trục lợi bất chính của các nhà sản xuất thuốc. Là cơ quan giám sát được cho là bảo vệ sức khỏe cộng đồng, FDA lại một lần nữa bán mình cho một nhà sản xuất vắc-xin mà không hề quan tâm đến mục tiêu của họ.
Cuối cùng, nếu cơ thể và hệ thống miễn dịch của con người khỏe mạnh có thể thực hiện chức năng của vắc-xin tổng hợp thì liệu có cần thiết phải có vắc-xin chống HPV không?
>>Tiếp: 5.3.2 Thử nghiệm ở Châu Phi
5.2.6 Vắc-xin được “tăng áp”
>>Trước: 5.2.5 Gây ra một cơn bão
Hiện tượng "bão cytokine" có liên quan trong bất kỳ thảo luận nào về vắc-xin có chứa tá dược. Đây là những hóa chất được thêm vào vắc-xin để tăng tốc độ phản ứng miễn dịch. Nói cách khác, tá dược làm tăng cường và phóng đại phản ứng miễn dịch với vắc-xin ngay sau khi tiêm, khi kháng nguyên được sử dụng là một dạng virus sống nhưng đã được làm yếu hoặc giảm độc lực.
Điều này có nghĩa là bạn cần ít vắc-xin hơn đáng kể để tạo ra phản ứng miễn dịch mong muốn so với khi bạn không sử dụng tá dược. Bất chấp bản chất gây tranh cãi của tá dược, rõ ràng là tại sao các công ty dược phẩm lại sử dụng những chất xúc tác hóa học này trong vắc-xin.
Bằng cách tăng "hiệu lực" của vắc-xin, họ thậm chí có thể tăng gấp bốn lần số liều với cùng một lượng kháng nguyên! Do đó, bằng cách sử dụng tá dược, các nhà sản xuất vắc-xin có thể tự động tăng gấp bốn lần lợi nhuận, lên tới hàng tỷ đô la mỗi năm.
Có nhiều lý do tại sao tá dược lại nguy hiểm, lý do thuyết phục nhất là khoa học chưa hiểu biết đầy đủ về chúng. Tuy nhiên, các nhà sản xuất thuốc vẫn sử dụng chúng chỉ dựa trên tiền đề đơn giản là chúng "có tác dụng".
Điều thú vị là tá dược được phát hiện khá tình cờ. Khi công nghệ vắc-xin vẫn còn đang phát triển, các nhà sản xuất thuốc đã nhận thấy mức độ hiệu quả khác nhau ở các liều vắc-xin từ cùng một lô. Sau đó, họ phát hiện ra rằng những liều mạnh hơn đã bị nhiễm bẩn bởi thiết bị phòng thí nghiệm.
Nghiên cứu sâu hơn cho thấy, thật kỳ lạ, trong điều kiện vệ sinh và vô trùng hơn, cùng một loại vắc-xin dường như mất đi một phần hiệu lực. Điều đáng kinh ngạc là mặc dù các nhà nghiên cứu có một số giả thuyết để giải thích tại sao tá dược lại tăng cường đáp ứng miễn dịch, nhưng không ai thực sự biết chắc chắn.
Thuật ngữ "chất bổ trợ / tá dược" được đặt ra vào những năm 1920 bởi bác sĩ thú y Gaston Ramon, người đã nhận thấy rằng những con ngựa được tiêm độc tố bạch hầu sẽ tạo ra phản ứng miễn dịch mạnh hơn nếu vị trí tiêm đã bị viêm. Tình trạng viêm này có thể do nhiều yếu tố gây ra, bao gồm cả bột sắn và vụn bánh mì mà Ramon sử dụng trong các thí nghiệm của mình!
Sau đó, người ta phát hiện ra phèn chua hoặc muối nhôm cũng mang lại kết quả tương tự, và cho đến nay, phèn chua là tá dược duy nhất được cấp phép sử dụng trong vắc-xin sản xuất tại Hoa Kỳ. Ví dụ, phèn chua có trong vắc-xin uốn ván và viêm gan B.
Như thể việc thiếu kiến thức khoa học liên quan đến chất bổ trợ chưa đủ đáng sợ, những diễn biến gần đây trong đợt bùng phát cúm lợn năm 2009 đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về khả năng sử dụng chất bổ trợ có nguồn gốc từ squalene.
Mặc dù các nhà sản xuất thuốc phủ nhận điều này, nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra rằng khi được sử dụng như một chất bổ trợ, squalene gây ra nhiều triệu chứng suy nhược bao gồm các bệnh tự miễn như viêm khớp dạng thấp.
Squalene là một phân tử dầu tự nhiên có trong cơ thể con người. Nhưng ở dạng tự nhiên, squalene vô hại và thậm chí còn được ca ngợi vì đặc tính chống oxy hóa của nó. Tuy nhiên, không phải sự hiện diện của squalene trong cơ thể mà chính cách nó được đưa vào cơ thể mới gây hại. Khi được tiêm vào cơ thể, hệ miễn dịch sẽ hiểu squalene là kẻ xâm nhập và bắt đầu tấn công nó.
Tệ hơn nữa, hệ thống miễn dịch còn bắt đầu tấn công tất cả các mô trong cơ thể có chứa phân tử squalene, chứ không chỉ riêng tá dược. Đây là cách squalene, với vai trò là tá dược, kích hoạt phản ứng tự miễn dịch.
Thảm họa squalene được trích dẫn nhiều nhất trên các tạp chí y khoa là phản ứng mà nó gây ra ở các cựu chiến binh Chiến tranh Vùng Vịnh trong cuộc xung đột năm 1991 ở Trung Đông. Những người lính này là đối tượng của các thử nghiệm thực nghiệm về vắc-xin phòng bệnh than có chứa squalene. Chất bổ trợ này được gọi là MF59 do tập đoàn dược phẩm khổng lồ Novartis sản xuất.
Những người lính này sau đó - trong nhiều trường hợp là nhiều năm sau - đã mắc các bệnh tự miễn và biểu hiện các triệu chứng như mất trí nhớ, mệt mỏi mãn tính, co giật, đa xơ cứng, tốc độ lắng máu hồng cầu (ESR) tăng cao, lupus ban đỏ hệ thống và các vấn đề thần kinh - tâm thần cùng nhiều vấn đề sức khỏe khác. Mặc dù có mối liên hệ rõ ràng với tá dược squalene trong vắc-xin phòng bệnh than, FDA vẫn liên tục phủ nhận bất kỳ mối liên hệ nhân quả nào. Rõ ràng, họ không muốn bị coi là đóng vai trò chính trong việc khiến quân đội của ho bị bệnh.
Sau đợt bùng phát cúm lợn, Hoa Kỳ rất lo ngại về việc liệu FDA có cho phép các nhà sản xuất vắc-xin trong nước đưa squalene vào vắc-xin phòng bệnh này hay không vì chất này được sử dụng rộng rãi ở Châu Âu và nhiều nơi khác.
Hiện nay, Novartis gọi tá dược squalene của mình là MF59, loại được sử dụng trong vắc-xin cúm theo mùa bên ngoài Hoa Kỳ, trong khi GlaxoSmithKline gọi tá dược squalene của mình là ASO3, loại được sử dụng trong vắc-xin cúm gia cầm H5N1.
Lần gần nhất FDA chấp thuận sử dụng squalene để chống lại bệnh cúm lợn ở Hoa Kỳ là khi chính phủ liên bang mua cổ phiếu trị giá 700 triệu đô la từ cả Novartis và Glaxo. Nguyên nhân là do tá dược squalene làm giảm đáng kể lượng kháng nguyên cần thiết, và trong thời gian bùng phát dịch H1N1, Hoa Kỳ lo ngại rằng họ có thể cạn kiệt vắc-xin H1N1.
Điều gì sẽ xảy ra với các kho dự trữ squalene này? Liệu chúng có được đưa vào nguồn cung thương mại - dù công khai hay bí mật - trong tương lai? Liệu chính phủ có viện dẫn quyền Ủy quyền Sử dụng Khẩn cấp để sử dụng chất bổ trợ này vào một thời điểm nào đó trong tương lai không?
Việc sử dụng squalene trong "cuộc chiến chống lại virus H1N1" có thể gây ra cho cơ thể con người một đòn giáng mạnh. Virus cúm nổi tiếng với khả năng đột biến, và đột biến rất nhanh, khiến các loại vắc-xin được sản xuất trước đó trở nên vô dụng.
Điều gì sẽ xảy ra nếu virus H1N1 đột biến - thuật ngữ khoa học là "chuyển đổi kháng nguyên" - và cũng gây ra cơn bão cytokine? Nếu một virus cúm đột biến xâm nhập vào một cá nhân hoặc toàn bộ quần thể đã được tiêm vắc-xin H1N1 có chứa squalene, điều đó sẽ đồng nghĩa với việc xảy ra cơn bão cytokine ở những cá nhân vốn đã dễ mắc bệnh tự miễn.
Nếu tất cả những điều này có vẻ chỉ là phỏng đoán, thì tại sao các công ty vắc-xin lại được phép đưa ra quá nhiều phỏng đoán về tá dược? Nếu không có đủ dữ liệu, làm sao ai đó có thể dự đoán được con đường tiến hóa mà virus sẽ đi?
>>Tiếp: 5.3 TOÀN THẾ GIỚI LÀ PHÒNG THÍ NGHIỆM
5.2 PHẦN II: CUỘC CHIẾN BÊN TRONG
>>Trước: 5.1.5 Tấn công sớm
Nếu các nhà khoa học, nhà hoạch định chính sách và các công ty dược phẩm đã biến huyền thoại thành "chân lý khoa học" trong suốt hai thế kỷ, thì đây là một sự thật đáng báo động khác, nói một cách nhẹ nhàng nhất. Các nhà khoa học, bao gồm cả các nhà virus học và công chúng, đơn giản là chưa có đủ hiểu biết về vắc-xin.
Có quá nhiều lỗ hổng trong kiến thức khoa học để biện minh cho việc tiêm vắc-xin cho trẻ sơ sinh hoặc người lớn; chính sách của chính phủ trao cho các nhà sản xuất vắc-xin (và các công ty dược phẩm nói chung) đặc quyền che giấu thông tin chi tiết về công thức, quy trình thử nghiệm và dữ liệu của họ đằng sau bức màn bí mật không thể xuyên thủng.
Có những vấn đề về nhiễm khuẩn mà công chúng sẽ không bao giờ biết đến (nhiễm khuẩn SV40 trong vắc-xin bại liệt chỉ là phần nổi của tảng băng chìm). Và các công ty dược phẩm thường xuyên mắc sai lầm rồi "tự nguyện thu hồi" các lô vắc-xin của họ.
5.2.1 Những 'Lỗi' chết người
Cái chết thương tâm của bé Alan Yurko năm 1997 cho thấy những gì có thể xảy ra do sự bất cẩn của các bác sĩ và các công ty dược phẩm lớn. Bé Alan qua đời hai tuần rưỡi sau khi chào đời.
Trẻ sơ sinh đã được tiêm sáu loại vắc-xin, bao gồm một liều vắc-xin Bạch hầu, Uốn ván và Ho gà (DTaP). Vắc-xin này đã được tiêm bất chấp chống chỉ định của DTaP, khuyến cáo không nên tiêm cho trẻ sơ sinh bị bất kỳ loại nhiễm trùng nào hoặc sinh non.
Bé Alan đạt cả hai tiêu chí, ngoại trừ việc thừa hưởng những điểm yếu khác từ mẹ, tất cả đều được liệt kê là chống chỉ định tiêm chủng.
Hồ sơ của bé Alan ghi rõ nguyên nhân tử vong là Hội chứng rung lắc trẻ sơ sinh - Shaken Baby Syndrome hay SBS (có các triệu chứng rất giống với triệu chứng của trẻ sơ sinh), trong đó cha của đứa trẻ bị buộc tội, mặc dù sau đó các bác sĩ thừa nhận rằng trường hợp này đã bị chẩn đoán sai.
Trong số các triệu chứng của bé Alan có tình trạng não bị sưng, tăng đông máu, viêm mạch máu và tụ máu dưới màng cứng, tất cả đều là hậu quả của Hội chứng rung lắc trẻ sơ sinh liên tục và dữ dội như mô tả trong SBS.
Các nghiên cứu sau đó đã tiết lộ rằng nhiều trường hợp được cho là SBS thực chất là các ca tử vong liên quan đến vắc-xin, điều này có thể tránh được nếu các bác sĩ tiêm vắc-xin ngừng tiêm để kiểm tra tiền sử bệnh của trẻ.
Còn một sự thật kinh hoàng khác về cái chết của bé Alan. Vắc-xin DTaP mà bé được tiêm sau đó được phát hiện là đến từ cái mà các nhà sản xuất vắc-xin gọi là "lô nóng".
Đây là những lô vắc-xin có số lượng "biến cố bất lợi" liên quan đến vắc-xin quá mức cần thiết, vì hiệu lực của vắc-xin cao hơn nhiều so với dự kiến. Theo định nghĩa, "lô vắc-xin nóng" là một lô vắc-xin quá mạnh và có khả năng lây nhiễm cho người tiêm chủng căn bệnh mà nó được thiết kế để bảo vệ họ khỏi!
Nói cách khác, đây là những lô hàng có sai sót nghiêm trọng trong quá trình sản xuất và chỉ được thu hồi khi phát hiện ra lỗi, thường là quá muộn.
Cuộc điều tra sâu hơn về trường hợp của bé Alan phát hiện ra rằng liều vắc-xin DTaP mà bé được tiêm đến từ "lô vắc-xin nóng nhất" (do Connaught Labs sản xuất). Điều này được chứng minh bằng thực tế là một số lượng bất thường trẻ sơ sinh đã tử vong sau khi tiêm liều vắc-xin từ lô này, trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 1999.
Bất chấp những tiết lộ từ trường hợp của bé Alan, vẫn còn nhiều trẻ sơ sinh tử vong do vắc-xin được sản xuất không đúng cách. Tất cả là do các nhà sản xuất vắc-xin không thực sự quan tâm đến tính mạng con người và điều này đồng nghĩa với việc sơ suất y khoa trắng trợn.
Rõ ràng là cộng đồng y tế và các nhà sản xuất vắc-xin đã không rút ra bài học từ vụ "tử vong trong nôi" ở Tennessee năm 1979, một cụm từ chung chung được dùng để che giấu sự thật rằng 11 trẻ sơ sinh, tất cả đều được tiêm vắc-xin DPT do Phòng thí nghiệm Wyeth sản xuất, đã tử vong do các biến chứng liên quan đến vắc-xin. (Lưu ý: DTaP là phiên bản an toàn hơn của một loại vắc-xin cũ có tên là DTP, hiện không còn được sử dụng ở Hoa Kỳ)
'Nhóm Tennessee', tên gọi khác của nó, đã gây ra một sự phẫn nộ và CDC buộc phải ra lệnh điều tra bao gồm cả thông tin đầu vào từ Văn phòng Tổng Y sĩ Hoa Kỳ, Bộ Y tế Tennessee và FDA.
Không có gì ngạc nhiên khi bất chấp lời chứng thực và sự hỗ trợ của nhiều bác sĩ và chuyên gia tư vấn y tế nổi tiếng từ nhiều trường đại học Hoa Kỳ cũng như các nhà sản xuất thuốc lớn, các ca tử vong ở Tennessee chưa bao giờ được ghi nhận chính thức là liên quan đến vắc-xin.
Trên thực tế, trong một bài báo trên Tạp chí Nhi khoa (1982), Tiến sĩ Roger H. Bernier, trưởng nhóm nghiên cứu do CDC bổ nhiệm, đã được trích dẫn rằng hội đồng của ông không thể tìm thấy mối quan hệ nhân quả giữa Lô # 64201 và các ca tử vong trong nôi, mặc dù cũng không thể loại trừ một trường hợp nào. Việc đứng giữa hai lập trường là thuận tiện cho tất cả mọi người và điều này cũng phù hợp với lập trường của Bernier.
Các cuộc điều tra độc lập sau đó đã tiết lộ rằng vắc-xin được tiêm cho 11 trẻ sơ sinh ở Tennessee có nguồn gốc từ một "lô vắc-xin nóng", có hiệu lực gấp đôi mức bình thường.
Vắc-xin này mạnh đến mức cả 11 em bé đều tử vong ngay sau mũi tiêm đầu tiên. Sau thảm kịch ở Tennessee, các nhà sản xuất vắc-xin đã rút ra bài học - họ đã thay đổi phương thức phân phối. Các lô hàng hiện đang được phân bổ để tránh tình trạng "tụ tập" và bị phát hiện nếu một "lô hàng nóng" xâm nhập vào chuỗi cung ứng thương mại!
Việc xem xét kỹ lưỡng hồ sơ bệnh án cho thấy vắc-xin DTaP và các biến thể của nó có liên quan đến một số lượng lớn các phản ứng bất lợi liên quan đến vắc-xin. Các phản ứng này bao gồm tổn thương não, co giật, áp xe và phản ứng dị ứng. Thành phần của vắc-xin được cho là có tác dụng bảo vệ chống lại bệnh ho gà (chữ 'P' trong DPT) là thành phần nguy hiểm nhất.
5.2.2 Thu hồi vắc xin
Khi một loại vắc-xin (hay bất kỳ loại thuốc nào khác) bị thu hồi, điều gì sẽ xảy ra với nó? Các nhà sản xuất vắc-xin không lên tiếng. Những người trong cuộc và những người tố giác cho rằng chúng đã được đưa trở lại lưu hành. Hơn nữa, việc xáo trộn liều lượng để tránh phát hiện "các lô hàng nóng" làm giảm gần như bằng không nguy cơ gây ra các phản ứng bất lợi gây chú ý.
Sau đây là một số trường hợp thu hồi vắc-xin gần đây được CDC ghi nhận.
* Vào tháng 12 năm 2009, Sanofi Pasteur đã tự nguyện thu hồi bốn lô vắc-xin H1N1 dành cho trẻ em vì hàm lượng kháng nguyên thấp hơn giới hạn hiệu lực "được chỉ định trước".
Nếu bạn thắc mắc "lô" nhỏ đến mức nào, hãy đọc bài viết này: Bốn lô do Sanofi Pasteur sản xuất tổng cộng lên đến 800.000 liều virus H1N1. Công ty thừa nhận rằng vắc-xin kém hiệu lực 12% so với mức khuyến cáo, mặc dù họ khẳng định rằng vắc-xin đã được kiểm tra kỹ lưỡng tại thời điểm sản xuất. Vậy thì hiệu lực đã giảm như thế nào? Và còn hàng ngàn trẻ em đã tiêm vắc-xin thì sao?
Quan điểm chính thức của công ty là vắc-xin vẫn đủ mạnh để bảo vệ trẻ em khỏi virus H1N1! Chỉ cần đếm số lỗ hổng tiềm ẩn, viễn cảnh này sẽ gióng lên hồi chuông cảnh báo.
Sanofi Pasteur không phải là nhà sản xuất vắc-xin duy nhất mắc lỗi trong việc sản xuất vắc-xin H1N1. Vào tháng 12 năm 2009, AstraZeneca đã thông báo thu hồi vắc-xin xịt mũi H1N1 MedImmune vì lý do tương tự: hiệu lực bị giảm. Lô vắc-xin lỗi này bao gồm 4,7 triệu liều, phần lớn đã được vận chuyển để sử dụng thương mại.
Tất nhiên, nhà sản xuất thuốc đã đưa ra tuyên bố miễn trừ trách nhiệm, khẳng định rằng vắc-xin đã đạt hiệu lực tối đa khi rời khỏi công ty. Kỳ lạ thay, họ cũng tuyên bố rằng người đã tiêm vắc-xin không cần phải tiêm lại. Vậy tại sao lại thu hồi thuốc?
* Vào tháng 7 năm 2009, Wyeth đã thu hồi một lô vắc-xin liên hợp 7 giá trị phế cầu khuẩn Prevnar phòng bệnh bạch hầu vì, theo lời công ty, lô vắc-xin này không được sử dụng cho mục đích thương mại. Công ty thừa nhận rằng các ống tiêm chứa vắc-xin đã "vô tình" bị trộn lẫn với các ống tiêm được sử dụng cho mục đích thương mại.
Chúng ta vẫn chưa biết điều gì đã xảy ra với những liều vắc-xin đó và liệu những người tiêm vắc-xin từ lô này có thể gặp hậu quả tử vong hay không.
* Vào tháng 12 năm 2007, Merck đã thu hồi 13 lô, tương đương 1,2 triệu liều vắc-xin PedvaxHIB và COMVAX, do "không đảm bảo tính vô trùng của sản phẩm". Ẩn sau thuật ngữ tưởng chừng vô hại này là vi khuẩn Bacillus cereus, tác nhân gây ngộ độc thực phẩm. Vi khuẩn này đã xâm nhập vào vắc-xin từ thiết bị chưa được khử trùng (bẩn) tại một trong những cơ sở sản xuất của hãng.
* Năm 2001, Merck buộc phải ngừng sản xuất hai loại vắc-xin - vắc-xin MMR và vắc-xin Varicella phòng bệnh thủy đậu sau khi FDA phát hiện cơ sở sản xuất hai loại vắc-xin này đã không tuân thủ một số quy định.
* Vào tháng 10 năm 2006, Novartis đã thu hồi hai lô Fluvirin (một loại vắc-xin cúm) vì phát hiện một số lô hàng chứa vắc-xin ở trạng thái "đông lạnh" hoặc dưới nhiệt độ yêu cầu. Công ty đã chỉ trích nhà phân phối.
* Vào tháng 4 năm 2004, Aventis Pasteur đã thu hồi một lô vắc-xin Imovax Rabies, một loại vắc-xin chống bệnh dại, sau khi phát hiện ra rằng một lô (mà họ tuyên bố là vẫn chưa được vận chuyển) có chứa một chủng vi-rút dại chưa được bất hoạt!
Tất cả những điều này để lại nhiều câu hỏi đáng lo ngại chưa có lời giải đáp. Vắc-xin không chỉ cực kỳ có hại cho sức khỏe con người mà còn thiếu sự kiểm soát đối với những gì các nhà sản xuất vắc-xin tuyên bố họ đang đưa vào lọ, ống tiêm, liều uống và thuốc xịt mũi.
Các công ty dược phẩm luôn khẳng định rằng họ duy trì các tiêu chuẩn nghiêm ngặt trong quá trình sản xuất. Vậy thì làm sao họ có thể giải thích được việc phải thu hồi sản phẩm liên tục?
5.2.3 Bí mật nội bộ
Chúng ta đã nói về sự nhiễm bẩn trong (Xem Chương 2: Những Sai Lầm Lịch Sử) và sự phẫn nộ do việc phát hiện ra SV40 trong vắc-xin bại liệt. Nhưng hóa ra sự nhiễm bẩn lại khá phổ biến.
Đối với các công ty dược phẩm, dữ liệu và hoạt động phòng thí nghiệm là thông tin được phân loại và chỉ thỉnh thoảng mới được công khai.
Có một người đàn ông có lẽ có thể làm sáng tỏ một số hoạt động diễn ra trong môi trường "vô trùng" của các phòng thí nghiệm dược phẩm. Ông là một nhà nghiên cứu vắc-xin, từng làm việc tại các phòng thí nghiệm của các công ty dược phẩm lớn ở Mỹ trong nhiều năm. Hiện đã nghỉ hưu, ông cũng từng làm việc tại Viện Y tế Quốc gia của chính phủ Hoa Kỳ.
Theo ông (danh tính của ông đã được giữ kín vì những lý do hiển nhiên), chúng ta biết rằng rất nhiều chất gây ô nhiễm sinh học đã xâm nhập vào nhiều loại vắc-xin khác nhau. Các công ty dược phẩm không thể phát hiện ra chúng hoặc không thể phân lập và loại bỏ chúng. Dù bằng cách nào, những chất gây ô nhiễm này đều có thể dẫn đến hậu quả tàn tật hoặc tử vong.
Theo nhà nghiên cứu đã nghỉ hưu, acanthamoeba, một loại amip ăn tế bào não, đã được tìm thấy trong vắc-xin bại liệt. Acanthamoeba có sẵn trong tự nhiên nhưng cũng thường được tìm thấy trong tế bào thận của khỉ.
Mối liên hệ của nó với vắc-xin bại liệt là gì? Tế bào thận khỉ thường được sử dụng để sản xuất vắc-xin bại liệt và nếu phòng thí nghiệm không kiểm tra sự hiện diện của nó, amip có thể xâm nhập vào vắc-xin mà không bị phát hiện.
Acanthamoeba gây ra nhiều triệu chứng khác nhau như cứng cổ, đau đầu và sốt. Khi amip di chuyển đến não, nó sẽ gây tổn thương não, biểu hiện bằng ảo giác và các thay đổi hành vi khác.
Trên thực tế, có rất nhiều loại amip được phát hiện có khả năng làm nhiễm bẩn vắc-xin. Các tác động này thường biểu hiện ở trẻ sơ sinh dưới dạng viêm não và nhiễm trùng đường hô hấp. Những vi sinh vật này xâm nhập vào vắc-xin từ đồ nội thất và thiết bị phòng thí nghiệm hoặc trực tiếp từ mô của động vật như khỉ, nơi virus được nuôi cấy và phát triển.
Các loại virus khỉ khác thường làm ô nhiễm vắc-xin là virus cytomegalovirus ở khỉ, virus bọt ở khỉ và virus ung thư ở chim, loại sau được tìm thấy trong vắc-xin MMR (Sởi, Quai bị, Rubella).
Vi khuẩn, vi-rút và một số thành phần của các tác nhân gây bệnh này, bao gồm cả độc tố mà chúng sản sinh ra cùng với các phân tử protein gây ung thư, sẽ tìm đường xâm nhập vào ống tiêm, thuốc nhỏ hoặc thuốc xịt mũi có chứa vắc-xin mà chúng ta được cho là có thể cung cấp khả năng miễn dịch với các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
Liệu tất cả những chất gây ô nhiễm này có nguy hiểm không? Sự thật là, không ai thực sự biết. Cũng với lý do đó, liệu vắc-xin có an toàn khi chứa một thứ gì đó không thể giải thích được và chưa rõ tác động lên cơ thể hay không?
5.2.4 Quả bom hẹn giờ vắc-xin
Có rất nhiều điều mà các nhà sản xuất vắc-xin và cơ sở y tế sẽ không nói cho bạn biết. Một trong số đó là mối nguy hiểm - thực ra là rất nhiều mối nguy hiểm - phát sinh từ virus giảm độc lực.
Vắc-xin sử dụng vi-rút sống (khác với vắc-xin sử dụng mầm bệnh bất hoạt hoặc 'chết') về cơ bản chứa vi-rút sống của căn bệnh mà nó có tác dụng ngăn chặn.
Mục đích của nó là làm suy yếu virus bằng cách thêm các hóa chất như formaldehyde (xem Chương 1: Huyền thoại về Vắc-xin) và sử dụng các tác nhân bất hoạt trong quá trình sản xuất. Virus giảm độc lực được cho là sẽ kích thích phản ứng miễn dịch đủ để tạo ra kháng thể chống lại virus (nhưng không gây ra bệnh hoàn toàn), và các kháng thể này, đến lượt nó, được cho là để bảo vệ cá thể trong trường hợp cùng loại virus thực sự xâm nhập vào cơ thể sau này. Tuy nhiên, việc "lây nhiễm" cơ thể bằng virus sống, ngay cả khi đã "giảm độc lực", vẫn có thể dẫn đến những hậu quả thảm khốc. Hãy nhớ rằng, ngay cả khi bị làm yếu, vi-rút chưa chết và vẫn đang lưu thông trong cơ thể.
Sự phát tán virus là một trong những hậu quả như vậy. Đây là quá trình mà người được tiêm vắc-xin phát tán virus sống giảm độc lực thông qua bài tiết qua các giọt nước mũi, nước bọt, nước tiểu và phân. Quá trình này thường diễn ra trong vài tuần sau khi tiêm vắc-xin.
Do đó, virus có thể lây lan sang các thành viên trong gia đình, bạn học, đồng nghiệp tại nơi làm việc hoặc bất kỳ ai. Nếu virus, thông qua hệ thống vệ sinh hoặc bất kỳ phương tiện nào khác, xâm nhập vào hệ thống cấp nước, toàn bộ cộng đồng có thể gặp rủi ro. Và chỉ cần một cá nhân như vậy cũng có thể gây ra một đợt bùng phát ở những người đã mắc bệnh nền hoặc hệ miễn dịch yếu.
Một số loại vắc-xin sử dụng virus giảm độc lực, trong đó vắc-xin cúm, thủy đậu và OPV có khả năng cao nhất dẫn đến việc virus bị thải ra ngoài môi trường. Trên thực tế, đây là một trong nhiều lý do khiến OPV bị rút khỏi thị trường Hoa Kỳ. Một số nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng virus rubella có thể lây truyền sang trẻ sơ sinh qua sữa mẹ!
Vào tháng 3 năm 2009, một cư dân New York đã kiện Lederle Laboratories, nhà sản xuất Orimune, một loại vắc-xin OPV. Nguyên đơn đã được bồi thường 22,5 triệu đô la bởi một bồi thẩm đoàn ở New York sau khi anh ta tuyên bố rằng, do sự phát tán virus, anh ta đã bị nhiễm virus bại liệt trong khi thay tã cho con mình. Anh ta khẳng định mình đã nhiễm virus qua một vết thương trên tay và đã bị bại liệt trong 30 năm trước khi nộp đơn kiện.
Việc sử dụng virus giảm độc lực trong vắc-xin còn tiềm ẩn những nguy cơ khác, một nguy cơ đáng lo ngại khác là chúng có thể gây hại cho những người có hệ miễn dịch suy yếu. Trong số những người dễ bị tổn thương nhất là những người mắc các bệnh tự miễn như viêm khớp dạng thấp, AIDS hoặc thậm chí là tiểu đường.
Câu hỏi đặt ra là liệu những người thuộc nhóm này có được phép từ chối tiêm chủng hay không? Nếu nhà nước quy định một nhóm đối tượng mục tiêu nhất định phải tiêm chủng thì sao?
Đợt bùng phát cúm lợn năm 2009, dẫn đến việc tiêm chủng bắt buộc, là một ví dụ điển hình, đặc biệt là vì không ai kiểm tra tiền sử bệnh án của từng người trong các chiến dịch tiêm chủng hàng loạt hoặc thực hiện các xét nghiệm để xem cơ thể người được tiêm có thể yếu hoặc bị tổn hại về mặt miễn dịch hay không.
Hãy suy luận thêm một bước nữa và phần lớn dân số sẽ gặp nguy hiểm vì hầu hết chúng ta đều có hệ thống miễn dịch bị suy yếu do loại và số lượng chất ô nhiễm mà chúng ta thường xuyên tiếp xúc, thuốc trừ sâu và thuốc diệt côn trùng trong thực phẩm, và tất cả các thành phần độc hại trong thực phẩm chế biến mà chúng ta ăn.
Tiếp theo là câu hỏi về việc virus giảm độc lực tiến hóa thành chủng đột biến. Các nhà nghiên cứu đã ghi nhận những trường hợp virus đột biến tiến hóa từ vắc-xin được tiêm chủng, từ đó tạo ra và có khả năng lây lan một căn bệnh mới trong khi vẫn cố gắng bảo vệ chống lại một căn bệnh đã biết.
Đây chính xác là những gì đã xảy ra ở Nigeria trong quá trình tiêm chủng hàng loạt bằng OPV vào năm 2002 và 2006. Trẻ em Nigeria bị liệt vẫn đang phải trả giá cho sai lầm này.
Một số nghiên cứu được thảo luận trên tạp chí y khoa Lancet đã ghi nhận những trường hợp vắc-xin viêm gan B cũng là một thủ phạm khét tiếng. Các nghiên cứu này trích dẫn những phát hiện về việc trẻ sơ sinh phát triển các chủng virus HBV đột biến, với một nghiên cứu cho rằng 3% trẻ sơ sinh này mang trong mình virus đột biến và biểu hiện các triệu chứng như bệnh gan hoạt động.
Vào những năm 1960, người ta đã quan sát thấy các đợt bùng phát bệnh viêm phổi do virus đột biến ở những binh lính Hoa Kỳ được thử nghiệm bằng vắc-xin phòng bệnh viêm phổi do virus.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng cơ thể phản ứng với virus (các hạt protein lạ) xâm nhập vào cơ thể qua các lỗ tự nhiên, khác với đường tiêm, theo những cách hoàn toàn khác nhau. Virus được tiêm vào máu cùng với các hóa chất có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, một con đường mà cơ thể không bao giờ có thể tự chuẩn bị đầy đủ. Để xử lý các hóa chất gây chết người, cơ thể có thể cần sự sinh sản của virus. Để giúp phá vỡ các tế bào yếu và lão hóa, cơ thể có thể cần nhiễm trùng do vi khuẩn. Bệnh tật phát sinh là một cuộc khủng hoảng chữa lành (nỗ lực loại bỏ độc tố khỏi cơ thể và chữa lành những tổn thương mà chúng gây ra).
Viêm phổi không phải là một bệnh, mà là một phương pháp tiếp cận phù hợp và hiệu quả của cơ thể nhằm giữ lại các chất gây ô nhiễm trong máu lưu thông trong mô phổi và niêm mạc, đồng thời cho phép các vi khuẩn như Streptococcus pneumoniae phân hủy các tế bào phổi bị tổn thương hoặc chết. Đờm tạo thành được ho ra, đôi khi kèm theo máu độc, và được loại bỏ. Khi quá trình chữa lành hoàn tất, các triệu chứng sẽ giảm dần và phổi sẽ khỏe mạnh hơn trước.
Sai lầm lớn nhất có thể mắc phải là làm gián đoạn hoặc ngăn chặn quá trình chữa lành bằng cách sử dụng kháng sinh, thuốc kháng vi-rút hoặc thuốc giảm viêm. Biến chứng của những can thiệp như vậy thường dẫn đến tử vong.
5.2.5 Gây ra một cơn bão
Hệ thống miễn dịch là một hệ thống phức tạp và tinh vi, trong đó mỗi tế bào và chức năng của nó được phối hợp hoặc biên đạo một cách hoàn hảo. Đôi khi, sự tương tác phức tạp này bị phá vỡ và hệ thống mất kiểm soát, tạo ra một "cơn bão cytokine".
Bão cytokine cực kỳ nguy hiểm và khi ảnh hưởng đến phổi, chúng thường gây tử vong. Chúng có thể được kích hoạt bởi nhiều yếu tố, bao gồm virus cúm và vắc-xin cúm giảm độc lực yếu.
Bão cytokine là quá trình phản ứng miễn dịch bị ngắt quãng, gây ra phản ứng thái quá và quá mức, cuối cùng dẫn đến ngừng hoạt động của một cơ quan.
Để hiểu cách thức và lý do tại sao điều này xảy ra, tôi xin giải thích ngắn gọn những gì xảy ra khi một tác nhân gây bệnh như virus được tiêm trực tiếp vào máu (một trường hợp hoàn toàn khác so với khi nó xâm nhập vào cơ thể qua các lỗ tự nhiên). Khi điều này xảy ra, các tế bào bạch cầu - đặc biệt là tế bào T và đại thực bào - sẽ đổ xô đến vị trí nhiễm trùng và viêm nhiễm, sau đó tiêu diệt mầm bệnh bằng phương pháp hóa học.
Nếu tác nhân gây bệnh mạnh, các tế bào bạch cầu chuyên biệt này cần huy động thêm quân. Chúng giải phóng một loại protein gọi là chemokine để báo hiệu cho các tế bào bạch cầu khác nhanh chóng đến vị trí nhiễm trùng và viêm.
Khi quá trình truyền tín hiệu này bị gián đoạn (ví dụ như bởi một số loại vắc-xin), quá trình này sẽ mất kiểm soát, tạo ra một cơn bão cytokine dữ dội và gây chết người. Điều này tạo ra một vòng lặp vô tận hoặc một phản ứng miễn dịch mất kiểm soát.
Trong khi thông thường, việc đưa nhiều tế bào bạch cầu đến vị trí bị thương hoặc nhiễm trùng cuối cùng sẽ chữa lành mô bị ảnh hưởng, thì trong cơn bão cytokine, cơ thể lại coi đây là nguyên nhân gây báo động lớn hơn và thúc đẩy nhiều tế bào hơn nữa hoạt động.
Kết quả là, mô hoặc cơ quan bị tràn ngập cytokine và cuối cùng ngừng hoạt động. Khi phản ứng này ảnh hưởng đến phổi, lượng dịch bất thường tích tụ trong cơ quan, đường thở bị tắc nghẽn, và cuối cùng nạn nhân bị Hội chứng Suy hô hấp Cấp tính (ARDS), suy phổi và tử vong. Bão cytokine cũng có thể dẫn đến suy đa cơ quan khi các cơ quan khác bị ảnh hưởng, chẳng hạn như tim, gan và thận.
>>Tiếp: 5.2.6 Vắc-xin được “tăng áp”
5.1.5 Tấn công sớm
>>Trước: 5.1.4 Đột tử
Mặc dù có rất nhiều bằng chứng cho thấy vắc-xin không an toàn và không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy chúng bảo vệ chúng ta khỏi bệnh tật, chúng ta vẫn chấp nhận cho phép những hóa chất độc hại này được tiêm vào con cái mình. Ngược lại, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy vắc-xin thực sự có thể cản trở sự phát triển bình thường của hệ miễn dịch ở trẻ. Ví dụ, các bác sĩ đã phát hiện ra rằng những người chưa từng bị sởi khi còn nhỏ dễ mắc các bệnh về da, bệnh về xương và sụn, và một số loại khối u hơn những người đã từng mắc bệnh. Người ta cũng phát hiện ra rằng những người không mắc quai bị dễ mắc ung thư buồng trứng hơn.
Một số nhà nghiên cứu tin rằng vật liệu di truyền của virus trong vắc-xin đậu gà có thể xuất hiện nhiều năm sau khi tiêm chủng dưới dạng bệnh herpes zoster hoặc bệnh zona hoặc các rối loạn khác của hệ thống miễn dịch.
Xu hướng này được xác nhận qua sự gia tăng 90% số ca mắc bệnh zona ở người lớn từ năm 1998 đến năm 2003, sau khi vắc-xin thủy đậu được triển khai đại trà. Bệnh zona có liên quan đến số ca tử vong cao gấp ba lần và số ca nhập viện cao gấp năm lần so với bệnh thủy đậu.
Thủy đậu chưa bao giờ là một căn bệnh nghiêm trọng, ít nhất là cho đến năm 1995, khi vắc-xin thủy đậu virus sống được cấp phép tại Hoa Kỳ và chương trình tiêm chủng đại trà bắt đầu. Trước đó và thậm chí cho đến tận bây giờ, đối với 99,9% trẻ em khỏe mạnh, thủy đậu là một bệnh nhẹ không có biến chứng. Trẻ em mắc thủy đậu trước sáu tuổi sẽ phát triển khả năng miễn dịch tự nhiên, lâu dài với bệnh.
Sau khi Merck phát triển và phân phối vắc-xin thủy đậu vào năm 1995, bệnh thủy đậu đột nhiên được tuyên bố là một căn bệnh đe dọa đến tính mạng mà trẻ em phải tiêm vắc-xin nếu không sẽ gặp phải các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng!
Bằng cách tiêm vắc-xin và ngăn ngừa trẻ em phát triển khả năng miễn dịch tự nhiên với bệnh thủy đậu, chúng ta hiện đang phải đối mặt với một đại dịch mới là người lớn mắc bệnh zona. Thủy đậu do virus varicella zoster gây ra, một loại virus thuộc họ virus herpes và có liên quan đến bệnh zona thần kinh (herpes zoster).
Sau khi khỏi bệnh thủy đậu, virus có thể ẩn náu trong rễ thần kinh của cơ thể trong nhiều năm, trừ khi được kích hoạt lại. Căng thẳng về thể chất hoặc tinh thần và gắng sức là những tác nhân kích hoạt phổ biến nhất. Khi bị đánh thức, các triệu chứng biểu hiện giống như bệnh zona chứ không phải thủy đậu.
Thiên nhiên tạo ra bệnh thủy đậu để tăng cường khả năng miễn dịch tự nhiên và phòng ngừa bệnh zona. Trẻ em mắc bệnh tự nhiên và sau đó tiếp xúc với những trẻ khác đang hồi phục sẽ nhận được một liều tăng cường miễn dịch tự nhiên, giúp các em được bảo vệ khỏi bệnh zona sau này. Nói cách khác, bằng cách ngăn chặn bệnh thủy đậu xảy ra ở trẻ em, chúng ta đang có nguy cơ gây ra dịch bệnh zona ở người lớn. Chúng ta đã được dạy phải tránh xa những người bị nhiễm bệnh thủy đậu. Thực tế, nếu bạn đã từng bị thủy đậu trong quá khứ, việc tiếp xúc với người bị thủy đậu thực sự đóng vai trò như một "vắc-xin tăng cường" giúp phòng ngừa bệnh zona, bất kể tuổi tác của bạn.
Kể từ khi vắc-xin thủy đậu được triển khai rộng rãi, số lượng thủy đậu không còn đủ để cung cấp chất tăng cường miễn dịch tự nhiên cho trẻ em và người lớn. Do đó, bệnh zona thần kinh do con người gây ra ngày càng gia tăng ở người lớn.
Bệnh zona, biểu hiện bằng đau và phát ban dạng mụn nước ở một bên cơ thể kéo dài từ ba đến năm tuần, thường không dẫn đến biến chứng nghiêm trọng. Tuy nhiên, ở những người có hệ miễn dịch yếu (xảy ra sau khi tiêm vắc-xin), các biến chứng có thể nghiêm trọng, thậm chí đe dọa tính mạng. Các biến chứng này bao gồm đau dây thần kinh sau zona, nhiễm trùng da do vi khuẩn, dấu hiệu Hutchinson, hội chứng Ramsay Hunt, bệnh thần kinh vận động, viêm màng não, mất thính lực, mù lòa và suy bàng quang.
Như thường lệ, những lợi ích ngắn hạn đạt được nhờ các biện pháp can thiệp y tế tức thời kiểu "viên đạn bạc" thực chất lại dẫn đến những thảm họa không thể khắc phục về lâu dài. Theo đó, chúng ta có thể đã đạt được mục tiêu giảm bệnh thủy đậu (bệnh nhẹ) ở trẻ em thông qua tiêm chủng hàng loạt, trong khi lại tạo ra sự gia tăng gần như tương đương bệnh zona (bệnh nặng) ở người lớn.
Xin lưu ý rằng vắc-xin thủy đậu có thể chỉ cung cấp miễn dịch bề ngoài tạm thời, trong khi việc phục hồi sau thủy đậu mang lại khả năng miễn dịch vượt trội lâu dài. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), "Hiệu quả của vắc-xin là 44% đối với bệnh ở mọi mức độ nghiêm trọng và 86% đối với bệnh ở mức độ trung bình hoặc nặng." Tôi không chắc họ có thể biết chắc điều này bằng cách nào, nhất là khi ước tính của họ đã được điều chỉnh đáng kể trong những năm gần đây.
Các cuộc điều tra về đợt bùng phát bệnh thủy đậu gần đây tại một nhà trẻ ở New Hampshire cho thấy bệnh bắt đầu từ một đứa trẻ đã được tiêm vắc-xin trước đó. Và theo báo cáo của tờ Washington Post, trong một đợt bùng phát khác, 75% trẻ em bị ảnh hưởng đã được tiêm vắc-xin phòng bệnh thủy đậu.
Một điều nữa là hầu hết trẻ em 10 tuổi đều có miễn dịch tự nhiên với bệnh thủy đậu mặc dù các em chưa từng mắc bệnh. Một nghiên cứu của Canada trên hơn 2.000 học sinh cho thấy 63% trẻ em không có tiền sử thủy đậu có kháng thể chống lại vi-rút. Người ta cho rằng các em chỉ bị thủy đậu ở mức độ rất nhẹ, không có triệu chứng gì cả, hoặc chỉ sổ mũi và phát ban nhẹ. Trên thực tế, hầu hết các trường hợp nhiễm trùng (bất kể loại nào) đều không có biến chứng, và chúng ta sẽ không bao giờ biết mình đã bị nhiễm bệnh. Nói cách khác, việc trẻ em chơi với những trẻ khác đang hồi phục sau thủy đậu rất có lợi.
Tất nhiên, nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho người lớn. Các nhà nghiên cứu tại Dịch vụ Phòng thí nghiệm Y tế Công cộng Anh (PHLS) phát hiện ra rằng người lớn sống chung với trẻ em có mức độ bảo vệ cao hơn khỏi bệnh zona.
Chúng ta phải nhớ rằng chúng ta có một hệ thống miễn dịch thông minh, không cần phải bị bệnh mới có thể miễn dịch với hầu hết các loại bệnh. Chỉ cần cho con bú ít nhất một năm đã được chứng minh là mang lại cho trẻ em hệ thống miễn dịch hiệu quả nhất có thể.
Dù sao đi nữa, việc vắc-xin thủy đậu kém hiệu quả như vẻ bề ngoài của nó có thể là một điều may mắn. Điều này thực sự có thể ngăn chặn một đại dịch zona thậm chí còn nghiêm trọng hơn những gì đang diễn ra. Tuy nhiên, điều may mắn ngụy trang này có thể không kéo dài. Gã khổng lồ dược phẩm Merck đã phát triển một loại vắc-xin zona (Zostavax) để giúp ngăn chặn đại dịch zona đang leo thang mà chính họ đã góp phần tạo ra bằng cách phổ biến vắc-xin thủy đậu của mình. Được FDA phê duyệt vào năm 2006, vắc-xin này nhắm đến những người từ 60 tuổi trở lên, với giá 200 đô la một mũi tiêm, bất kể những người cao tuổi này đã bị suy giảm miễn dịch hay mắc một bệnh khác như ung thư. Đối với ngành y tế, đây chỉ là một chiêu trò tiếp thị khéo léo khác. Đầu tiên, họ gây ra vấn đề rồi sau đó lại đề nghị giúp đỡ khắc phục. Việc khắc phục, đến lượt nó, lại gây ra nhiều vấn đề sức khỏe hơn, đòi hỏi phải có những giải pháp mới. Và vì vậy, mô hình Ponzi y tế tiếp tục phát triển theo cấp số nhân.
Câu hỏi chính ở đây là liệu có đáng để mạo hiểm sức khỏe hoặc tính mạng của con bạn, hiện tại hoặc tương lai, mà không mang lại lợi ích thực sự nào hay không. Hãy xem xét những tác dụng phụ sau đây có thể xảy ra khi tiêm vắc-xin thủy đậu:
Theo Hệ thống báo cáo tác dụng phụ của vắc-xin liên bang (Vaccine Adverse Events Reporting System - VAERS), từ tháng 3 năm 1995 đến tháng 7 năm 1998, cứ 1.481 ca tiêm vắc-xin thủy đậu thì có một ca gặp biến cố sức khỏe bất lợi.
Trong số các biến cố bất lợi, khoảng 1 trong 33.000 liều liên quan đến các biến chứng nghiêm trọng như sốc, viêm não (brain inflammation), giảm tiểu cầu (một rối loạn về máu), viêm mô tế bào, viêm tủy cắt ngang, hội chứng Guillain-Barré và bệnh zona.
Trong số 6.574 trường hợp phản ứng phụ do vắc-xin thủy đậu được báo cáo, có 14 trường hợp tử vong.
Với thực tế là các phản ứng phụ do vắc-xin được báo cáo thấp hơn thực tế tới 90 phần trăm - con số 140 ca tử vong có khả năng xảy ra thay vì 14 trường hợp được báo cáo nên cảnh báo mọi phụ huynh và bác sĩ về chương trình tiêm chủng rủi ro như vậy.
Nguy cơ có thể còn lớn hơn khi vắc-xin được kết hợp với các loại vắc-xin khác, chẳng hạn như MMR, đã được Barbara Loe Fisher thuộc Trung tâm Thông tin Vắc-xin Quốc gia (NVIC) xác nhận. Bà cho biết: "Chúng tôi đã nhận được báo cáo từ các bậc phụ huynh rằng con họ bị sốt cao, tổn thương thủy đậu, zona, tổn thương não và tử vong sau khi tiêm vắc-xin đậu gà, đặc biệt là khi tiêm vắc-xin này cùng lúc với MMR và các loại vắc-xin khác."
Trung tâm Thông tin Vắc-xin Quốc gia (NVIC). Bà cho biết: "Chúng tôi đã nhận được báo cáo từ các bậc phụ huynh rằng con em họ bị sốt cao, tổn thương thủy đậu, zona, tổn thương não và tử vong sau khi tiêm vắc-xin đậu gà, đặc biệt là khi tiêm cùng lúc với vắc-xin MMR và các loại vắc-xin khác."
Tóm lại, tiêm chủng không mang lại lợi ích gì so với việc không tiêm chủng. Tiêm chủng chỉ góp phần làm tăng thêm tỷ lệ mắc bệnh và do đó tạo ra nhu cầu chăm sóc y tế vô tận, từ đó mang lại lợi ích cho những kẻ kiếm tiền từ những người dân thiếu cảnh giác.
Điều này đưa chúng ta trở lại vấn đề miễn dịch tự nhiên so với miễn dịch thu được đã được thảo luận trong Chương 1: Huyền thoại về vắc-xin. Nói cách khác, các bệnh truyền nhiễm ở trẻ em mang lại cho cơ thể khả năng miễn dịch tự nhiên mà vắc-xin được cho là tạo ra một cách nhân tạo, nhưng vô ích.
Sự thật là chúng ta bị tấn công bởi các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn, virus, amip, v.v. - mỗi ngày nhưng không mắc phải các bệnh truyền nhiễm mà những vi khuẩn này được cho là gây ra. Điều này hoàn toàn là do hệ thống miễn dịch và các bộ lọc tự nhiên khác của cơ thể liên tục và không ngừng nghỉ tiêu diệt và loại bỏ các vi khuẩn và mảnh vụn không có lợi mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta. Những người có hệ miễn dịch bị suy yếu và không thể giữ cho nội tạng sạch sẽ cần sự xâm nhập và sinh sôi của vi khuẩn để giúp giải độc cơ thể.
Hệ miễn dịch chủ yếu bao gồm các tế bào bạch cầu, kháng thể và hệ bạch huyết. Các tế bào bạch cầu và bạch huyết lưu thông khắp các cơ quan, mô và tế bào của chúng ta, đồng thời làm sạch chúng khỏi các mảnh vụn tế bào, độc tố và các tác nhân gây bệnh tự nhiên trên đường đi.
Chưa hết. Hệ miễn dịch được phân tầng rất đẹp mắt và hoạt động ở nhiều cấp độ khác nhau. Nó cũng bao gồm nhiều tuyến phòng thủ mà tác nhân gây bệnh phải đối mặt để có thể xử lý hiệu quả. Nói cách khác, cơ thể sử dụng nhiều bộ lọc trong quá trình sàng lọc tác nhân gây bệnh để đảm bảo bất kỳ tác nhân gây hại nào cũng bị tiêu diệt trước khi nó có thể gây nhiễm trùng, trừ khi, tất nhiên, nhiễm trùng trở nên cần thiết và cơ thể cho phép điều đó xảy ra.
Những 'bộ lọc' khác nhau này là gì? Ngoài lớp niêm mạc nhầy đã đề cập dọc theo các lỗ trên cơ thể, nước bọt còn bảo vệ chúng ta khỏi vi trùng và da đóng vai trò như lớp áo giáp bảo vệ các cơ quan nội tạng. Gan là bộ lọc và thanh lọc tối cao của cơ thể, giúp làm sạch máu khỏi tất cả các loại chất thải độc hại, bao gồm hóa chất và các sản phẩm phụ từ thuốc khi máu đi qua cơ quan này.
Tiếp theo là các cơ quan bài tiết như thận, ruột già và ruột non để loại bỏ chất thải rắn. Khi bạn thở ra, không khí bạn thở ra cũng chứa chất thải tế bào, giống như mồ hôi của bạn vậy.
Thực tế là để tạo ra khả năng miễn dịch tự nhiên và thực sự chống lại bệnh tật, tác nhân gây bệnh phải kích thích phản ứng viêm và miễn dịch toàn diện. Đây là một phản ứng phức tạp, cộng hưởng với toàn bộ hệ thống miễn dịch phức tạp của cơ thể. Khi điều này xảy ra tự nhiên, cơ thể sẽ có được khả năng miễn dịch suốt đời với một loại vi khuẩn cụ thể.
Nhưng để điều này xảy ra, tác nhân gây bệnh phải đi qua các kênh tự nhiên, từ ngoài vào trong. Ví dụ, tác nhân gây bệnh phải đi từ hệ hô hấp hoặc qua nước bọt hoặc da, rồi đến các cơ quan khác tham gia lọc thải như niêm mạc, tuyến ức, gan và lách.
Vắc-xin không làm được điều này. Thay vào đó, chúng hoàn toàn bỏ qua quá trình từ ngoài vào trong bằng cách tiêm trực tiếp, do đó không kích thích được phản ứng miễn dịch toàn diện.
Bằng cách tiêm một loại virus sống nhưng đã giảm độc lực, một phần của virus hoặc một loại virus đã chết, vắc-xin đánh lừa hệ miễn dịch giải phóng kháng thể chống lại một tác nhân gây bệnh cụ thể. Lối tắt này, có thể nói, chính là nền tảng của lý thuyết vắc-xin và nó có sai sót nghiêm trọng.
Ví dụ, mãi sau này người ta mới phát hiện ra rằng hệ miễn dịch bao gồm hai phần. Khi một phần hoạt động, nó sẽ ức chế phần còn lại và ngược lại. Việc kích thích nhân tạo một phần của hệ thống để sản xuất kháng thể sẽ ức chế bất thường phần còn lại và do đó làm rối loạn toàn bộ phản ứng miễn dịch.
Một trong những hậu quả chính của việc này là đôi khi cơ thể bắt đầu sản xuất kháng thể tấn công chính tế bào của nó, từ đó tạo ra bệnh tự miễn. Ít nhất thì đó là lý thuyết đằng sau những rối loạn tự miễn dịch như vậy; nhưng tôi sẽ đưa ra một lời giải thích hơi khác một chút ở phần dưới. Cơ quan bị ảnh hưởng phụ thuộc vào mô nào bị kháng thể tấn công.
Ví dụ, khi não và tủy sống bị tấn công, cá nhân sẽ bị viêm não do vắc-xin gây ra. Điều này dẫn đến một số bệnh, bao gồm Hội chứng Guillain-Barré và các bệnh lý thần kinh khác, thường biểu hiện bằng các triệu chứng hành vi.
Liệu có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi tỷ lệ mắc các bệnh tự miễn như viêm khớp dạng thấp, hen suyễn, rối loạn não nhẹ, tự kỷ và bệnh lupus ban đỏ bán cấp đã tăng đáng kể khi cơ sở y tế khuyến cáo tiêm nhiều loại vắc-xin?
Thực tế, có những yếu tố khác gây ra bệnh tự miễn, nhưng một số nhà nghiên cứu khẳng định chắc chắn rằng vắc-xin cũng là một nguyên nhân. Theo tôi, không phải bản thân kháng nguyên, mà chính các hạt protein lạ và các chất phụ gia hóa học trong vắc-xin, chẳng hạn như thủy ngân, nhôm, formaldehyde, các bộ phận cơ thể chứa DNA lạ và squalene, mới tạo ra phản ứng tương tự.
Một khi chất độc này được tiêm trực tiếp vào máu, nó chắc chắn sẽ đi vào não, lá lách, thận, gan, dịch khớp, thành mạch máu, mạch bạch huyết và mô liên kết của ruột, phổi, vú và các bộ phận khác. Tổn thương mô đa dạng do các độc tố này gây ra đòi hỏi cơ thể phải liên tục và phản ứng chữa lành đáng kể, bao gồm cả việc sản xuất kháng thể. Như đã đề cập, cơ thể sử dụng kháng thể để chữa lành các mô bị tổn thương và trung hòa các chất độc hại tích tụ. Để giải độc và chữa lành các mô bị ảnh hưởng một cách hiệu quả, trước tiên, kháng thể và các tế bào khác của hệ miễn dịch phải gây viêm chúng.
Phản ứng thái quá của hệ miễn dịch có thể xảy ra khi cơ thể bị quá tải do sự xuất hiện đột ngột của các chất độc hại không tự nhiên trong máu như thủy ngân và kháng sinh. Y học hiện đại gọi nỗ lực chữa lành này là bệnh tự miễn, nghĩa là cơ thể tự tấn công chính mình. Thực ra, cơ thể không hề có ý định tự sát.
Bây giờ chúng ta hãy xem vắc-xin làm nhiễm độc hệ miễn dịch như thế nào và tại sao chúng lại làm mất cân bằng hệ miễn dịch. Hầu hết vắc-xin đều là vắc-xin "sống", tức là chứa vi-rút đã được làm yếu đi để không gây ra các triệu chứng bệnh toàn diện trước khi đưa vào cơ thể người.
Trước đó, virus phải được "nuôi cấy" hoặc nuôi cấy nhân tạo trong khi được nuôi bằng các chất giàu dinh dưỡng như thai nhi người bị phá thai, phôi gà, mô phôi lợn và tế bào thận khỉ.
Bạn có thể tưởng tượng được "nền văn hóa" này thối rữa đến mức nào không? Bước tiếp theo là loại bỏ tạp chất và cô lập virus bằng cách xử lý nó qua một loạt các quy trình hóa học phức tạp.
Khi virus đã bị làm yếu hoặc suy yếu xâm nhập vào cơ thể người, cơ thể sẽ phản xạ để vô hiệu hóa kẻ xâm nhập và sản sinh ra một lượng kháng thể lớn hơn trong quá trình này. Đây là một phản ứng sinh hóa mạnh mẽ, bởi vì trong điều kiện bình thường, virus hiếm khi hoặc thậm chí không bao giờ xâm nhập trực tiếp vào cơ thể qua đường máu.
Tuy nhiên, vắc-xin có chứa các chất phụ gia hóa học gọi là tá dược để tăng cường đáp ứng miễn dịch ban đầu. Chúng cũng chứa các chất cố định hóa học để ngăn hệ thống miễn dịch tiêu diệt hoàn toàn kháng nguyên. Việc tiêu diệt vật liệu virus sẽ làm mất đi mục đích của vắc-xin, phải không? Tiếp theo, chất bảo quản được thêm vào vắc-xin để ngăn ngừa sự thối rữa và kéo dài thời hạn sử dụng.
Trong số các chất phụ gia hóa học có trong vắc-xin có monosodium glutamate, thimerosal (thủy ngân), kháng sinh, chất chống đông và các hợp chất có tính axit và độc hại khác.
Trẻ em là nhóm dân số dễ bị tổn thương nhất vì hệ miễn dịch của các em gần như không có khả năng chống lại những chất độc này. Các em rất dễ bị tổn thương vì hầu hết các bà mẹ đã từng được tiêm phòng và do đó không thể truyền miễn dịch tự nhiên cho con qua sữa mẹ.
Thêm bằng chứng cho thấy vắc-xin gây tử vong cho trẻ em đến từ James R. Shannon thuộc Viện Y tế Quốc gia. Ông nói: "Không có loại vắc-xin nào được chứng minh là an toàn trước khi tiêm cho trẻ em."
Một sinh linh mới, với hệ miễn dịch đã bị tổn thương, không thể đối phó hiệu quả với cuộc tấn công di truyền và hóa học như vậy. Theo một nghiên cứu của Úc, trẻ em được tiêm vắc-xin ho gà có nguy cơ mắc viêm não do vắc-xin cao gấp năm lần so với trẻ bị viêm não do tiếp xúc với bệnh ho gà thông qua các con đường tự nhiên.
Ngoài ra, khi trẻ được tiêm chủng, cấu tạo sinh hóa đặc thù của trẻ không được quan tâm. Vì trẻ sơ sinh hầu như không có "tiền sử" bệnh lý, nên không có cách nào để biết trẻ có thể mắc những bệnh lý nào. Ví dụ, trẻ sinh non thường không khỏe mạnh bằng trẻ sinh đủ tháng.
Tuy nhiên, vắc-xin vẫn được tiêm bất kể sự khác biệt của từng cá nhân (điều này cũng áp dụng cho trẻ lớn và người lớn). Đây là chính sách một liều cho tất cả mọi người. Ngoài ra, liều lượng không thay đổi theo cân nặng và các yếu tố khác.
Ngay sau khi tiêm vắc-xin, cơ thể trẻ sơ sinh sẽ tập trung toàn bộ sức mạnh để đào thải vắc-xin. Nếu trẻ nhạy cảm về mặt sinh học hoặc yếu, vắc-xin có thể đi qua hàng rào máu não quan trọng và gây tổn thương các tế bào não. Tự kỷ chỉ là một trong số rất nhiều hậu quả thần kinh nghiêm trọng của việc tiêm chủng.
Trong phần tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn về cách vắc-xin tuyên chiến toàn diện với hệ miễn dịch của con người.
>>Tiếp: 5.2 CUỘC CHIẾN BÊN TRONG
5. Chương 3 - Có âm mưu gì không?
5.1 Phần I: CUỘC CHIẾN VỚI TRẺ SƠ SINH
>>Trước: 4.6 Chuyển đổi bệnh
Lịch sử tiêm chủng đầy rẫy những thông tin không chính xác - và việc chỉnh sửa hồ sơ bệnh án - đến nỗi đôi khi rất khó để phân biệt đâu là sự thật, đâu là hư cấu. Dù có bao nhiêu bài viết hay lời bàn tán về hiệu quả của tiêm chủng, sự thật là hoàn toàn không có bằng chứng nào chứng minh vắc-xin có hiệu quả.
Ở phần sau của cuốn sách này, chúng ta sẽ thảo luận về việc hoàn toàn thiếu các nghiên cứu khoa học chứng minh rằng lý thuyết tiêm chủng được xây dựng trên các nguyên tắc khoa học vững chắc. Chỉ cần lập luận tạm thời rằng nếu thực sự như vậy, giới y khoa đã không cần phải bóp méo số liệu và trình bày dữ liệu chọn lọc để chứng minh vắc-xin có hiệu quả.
Ngược lại, một lý thuyết dựa trên sự thật khoa học không cần đến những người tuyên truyền vì nó tự nó có giá trị.
Vậy ai được lợi khi tẩy não công chúng bằng những lời dối trá như vậy? Họ đang cố che giấu điều gì? Động cơ thầm kín của họ là gì? Họ đạt được mục đích gian xảo của mình bằng cách nào?
5.1.1 Cuộc tàn sát thời hiện đại?
Khi chúng ta tranh luận về những vấn đề đạo đức và luân lý này, chúng ta cũng sẽ xem xét những hậu quả thường gây chết người của những hành động vô lương tâm này. Không có gì ngạc nhiên khi một số nhà nghiên cứu và những người vận động chống tiêm chủng thậm chí còn so sánh các chiến dịch tiêm chủng với các cuộc "thảm sát" của Đức Quốc xã.
Nếu không thì tại sao các cơ quan y tế công cộng phương Tây lại ép Uganda tiêm vắc-xin bại liệt khi quốc gia châu Phi này không có tiền sử mắc bệnh? (Xem thêm về điều này trong Phần III: Cả thế giới là một phòng thí nghiệm). Nếu phe chống vắc-xin bị cáo buộc là phóng đại và hoang tưởng, thì niềm tin của họ dường như ngày càng đáng tin hơn khi bạn đi sâu vào chi tiết. Với nhận thức ngày càng tăng và khả năng tiếp cận thông tin, nhờ các công cụ mà Internet và các công nghệ khác đã mang lại, bằng chứng đang ngày càng nhiều, chẳng hạn, để đưa ra lập luận thuyết phục rằng AIDS đã được các chính phủ phương Tây cố tình đưa vào châu Phi.
Còn cách nào tốt hơn để kiểm soát toàn bộ một quốc gia hơn là khiến họ ốm yếu, nghèo đói và phụ thuộc vào các nhà tài trợ?
Việc kiểm soát toàn bộ các quốc gia mang lại những lợi ích vật chất to lớn, trong đó có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào như dầu mỏ. Liệu có quá xa vời khi tin rằng tiêm chủng đang được sử dụng như một phương tiện có chủ đích để thao túng, hù dọa và thậm chí giết người ở những quốc gia mà trình độ dân trí thấp đã kìm hãm ý chí của người dân và ngăn cản họ đặt ra những câu hỏi "ngượng ngùng"?
Khi Vắc-xin bại liệt uống (OPV) được giới thiệu tại Nigeria vào năm 2002, các giáo sĩ Hồi giáo đã kêu gọi người dân nổi dậy. Chiến dịch này xuất phát từ sự hoài nghi đối với các quốc gia phương Tây và động cơ của họ.
Dù có căn cứ hay không, vẫn có những nghi ngờ rằng OPV chứa các tác nhân gây vô sinh nhắm vào cộng đồng Hồi giáo ở Nigeria. Một số người đã nhắc nhở UNICEF, tổ chức đang dẫn đầu chiến dịch tiêm chủng bại liệt ở Nigeria, về những thử nghiệm lâm sàng kinh hoàng do tập đoàn dược phẩm khổng lồ Pfizer của Mỹ thực hiện vào năm 1996.
Chính phủ Nigeria sau đó đã kiện công ty này, khi đó đang thử nghiệm một loại thuốc kháng sinh tên là Trovan. Thuốc này đã được sử dụng cho 233 trẻ em Nigeria bị viêm màng não do vi khuẩn trong một trận dịch. Trong quá trình thử nghiệm lâm sàng, 196 trẻ đã tử vong và 37 trẻ còn lại gặp phải các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, bao gồm liệt và tổn thương não.
Lý do thứ ba khiến người dân Nigeria phẫn nộ trước chiến dịch tiêm vắc-xin bại liệt của UNICEF là cáo buộc rằng thế giới phương Tây, thông qua các cơ quan như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và các tổ chức phi lợi nhuận toàn cầu khác, đã cố tình đưa HIV vào châu Phi vào những năm 1950 thông qua vắc-xin bại liệt. Vắc-xin này được tiêm cho một triệu người ở nơi hiện nay là Rwanda và Burundi, nơi những trường hợp nhiễm HIV đầu tiên ở Châu Phi sau đó được phát hiện.
Dù đúng hay sai, vẫn có sự hoài nghi lan rộng ở nhiều khu vực về các chiến dịch tiêm chủng hàng loạt, cũng như ý định vị tha của các cơ quan y tế công cộng và viện trợ quốc tế, cùng động cơ của họ. Liệu tất cả chỉ là phỏng đoán? (Xem thêm về điều này trong Phần III: Cả thế giới là một phòng thí nghiệm và Chương 4: Khối lượng tới hạn)
5.1.2 Ai sẽ được lợi?
Tất cả những điều này cho thấy một dạng âm mưu y tế, liên quan đến ngành công nghiệp dược phẩm, cơ sở y tế, các cơ quan quản lý y tế và các nhà hoạch định chính sách. Nếu điều này là sự thật, thì những nhóm lợi ích này sẽ được lợi gì?
Sự thật phức tạp hơn những gì ta thấy ngay. Mặc dù chỉ một số nhóm cốt cán có thể bị cáo buộc âm mưu giết hại trẻ em và người lớn vô tội một cách có chủ đích, nhưng cũng có rất nhiều kẻ vô tình thông đồng.
Ở trung tâm của tổ chức vắc-xin là các công ty dược phẩm, các thành viên cấp cao của giới y khoa, các nhà hoạch định chính sách và cơ quan quản lý y tế. Các công ty dược phẩm kiếm được hàng tỷ đô la mỗi năm từ việc bán vắc-xin và các khoản tài trợ nghiên cứu, trong khi các chính trị gia lại có những động cơ thầm kín riêng.
Nhưng, xin hỏi, tại sao một người tầm thường như bác sĩ đa khoa lại có thể thúc đẩy cùng một mục tiêu như vậy? Chắc chắn, anh ta hoặc cô ta không thể tham gia vào một âm mưu toàn cầu chứ?
Để tôi nói thế này. Tại sao các bệnh do tiêm chủng lại thường bị chẩn đoán sai đến vậy? Phải chăng có sự cố tình che giấu sự thật? Bác sĩ được lợi gì khi lừa dối trẻ em và cha mẹ các em?
Khi một bác sĩ được nuôi dưỡng theo truyền thống y học cổ truyền đối chứng phải đối mặt với những mâu thuẫn rõ ràng, xu hướng tự nhiên là biện minh cho sự thật. Nghĩa là, nếu một bác sĩ gặp một bệnh nhân có triệu chứng của bệnh bại liệt, chẳng hạn, và ông ta biết bệnh nhân đã được tiêm vắc-xin phòng bệnh, ông ta thà chẩn đoán sai các triệu chứng còn hơn thừa nhận rằng vắc-xin không có tác dụng, hoặc tệ hơn, rằng vắc-xin thực sự gây ra bệnh.
Tại sao các bác sĩ lại đặt cược danh tiếng và niềm tin cơ bản của mình vào một hệ thống y học bằng cách đặt câu hỏi về chính nền tảng công việc cả đời của họ? Vô tình hay cố ý, qua nhiều thế hệ các bác sĩ và chuyên gia y tế đã, và bằng nhiều cách khác, thúc đẩy sự nghiệp tiêm chủng. Họ chỉ đơn giản là được nuôi dạy để làm như vậy trong những năm tháng nghiên cứu học thuật.
Những người khác có thể tham gia vào hoạt động tuyên truyền ủng hộ tiêm chủng và thậm chí làm sai lệch dữ liệu lâm sàng để đảm bảo các khoản tài trợ nghiên cứu và học bổng hấp dẫn, sự công nhận và giải thưởng của công chúng.
Cũng như động cơ thì nhiều, người tham gia vào trò chơi nguy hiểm này cũng nhiều không kém. Nhưng mục tiêu thì luôn giống nhau: che giấu sự thật khỏi công chúng.
Đây là một hệ thống khép kín hoạt động ở nhiều cấp độ, một hệ thống đã hoạt động hoàn hảo trong suốt 200 năm qua kể từ khi Edward Jenner 'phát triển' vắc-xin đậu mùa, cũng được coi là vắc-xin 'thành công' đầu tiên trên thế giới (Phiên bản hiện đại, Dryvax do Wyeth Laboratories sản xuất, đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ chấp thuận vào năm 1931)
5.1.3 Một công chúng thiếu hiểu biết
Nhưng một hệ thống như thế này chỉ hoạt động nếu chúng ta tin tưởng vào nó. Và chúng ta đã tin tưởng. Chiến thuật được các nhóm vận động hành lang vắc-xin sử dụng phổ biến nhất chính là nỗi sợ hãi. Lợi dụng cảm xúc nguyên thủy này của con người và ăn sâu vào ý thức cộng đồng chính là nỗi sợ về "hậu quả thảm khốc" (tức là cái chết) nếu chúng ta không tiêm chủng cho con cái, bản thân và thậm chí cả thú cưng!
Đây là thông điệp được truyền tải đến chúng ta thông qua các quảng cáo tinh vi và trắng trợn được các công ty dược phẩm chi trả nhằm duy trì huyền thoại rằng vắc-xin bảo vệ sức khỏe và cứu sống con người.
Sự hoảng loạn tập thể là một công cụ cực kỳ hiệu quả khác, được chứng kiến gần đây nhất trong đợt bùng phát cúm lợn năm 2009 và trước đó là đợt bùng phát SARS năm 2002. Đại dịch sợ hãi này, được thúc đẩy bởi giới truyền thông quá khích, đã tạo điều kiện cho việc tiêm chủng cho hàng triệu nạn nhân sẵn sàng và không sẵn lòng trên nhiều châu lục.
Những loại vắc-xin đó chứa gì? Liệu các nghiên cứu có lợi dụng cơn hoảng loạn để thử nghiệm các chủng virus và chất phụ gia hóa học chưa biết đến không? Liệu đại dịch toàn cầu có phải là do cố ý tạo ra không? (Xem Chương 7: Cúm lợn: Đại dịch không thành công)
Một vũ khí khác để tẩy não công chúng chính là truyền thông, vốn đã bán mình cho các tập đoàn dược phẩm hàng thập kỷ trước. Chúng ta đã đọc bao nhiêu lần về những kết quả "thành công" của các cơ quan y tế công cộng như WHO mỗi khi một chiến dịch tiêm chủng được tiến hành! Những lời tuyên truyền như vậy chỉ càng củng cố cái gọi là bản chất cứu sống của những liều thuốc độc hại này. Chúng ta đã bao nhiêu lần đọc về những loại thuốc thần kỳ được viết bởi một phương tiện truyền thông mà chủ sở hữu thường có quan hệ mật thiết với các tập đoàn dược phẩm lớn?
Cuối cùng, sự thiếu hiểu biết của công chúng cũng góp phần duy trì quan niệm rằng tiêm chủng là một nghi thức trưởng thành mà mọi trẻ em đều phải trải qua trong lần đầu tiên.
Vài tuần trong cuộc đời của họ. Việc tẩy não (về lợi ích của việc tiêm chủng) bắt đầu từ khoa sản. Nó tiếp tục ở trường học, và khi chúng ta lớn lên, chúng ta bị tấn công bởi những thông điệp dịch vụ công về sự cần thiết của việc tiêm chủng.
Đây là một công cụ xảo quyệt vì các thông điệp giáo dục và dịch vụ công thường "tích cực" và không tạo ra sự phản kháng. Chúng thực sự tạo ra một tâm lý nhất định, khiến công chúng dễ bị tổn thương trước các chiến thuật khác như gieo rắc nỗi sợ hãi và kích động quần chúng.
Cuối cùng, xu hướng tìm kiếm giải pháp nhanh chóng và lối thoát dễ dàng của con người đã hoàn tất chu trình tẩy não. Đối với hầu hết mọi người, việc chấp nhận một vài mũi tiêm dễ dàng hơn là sống một lối sống lành mạnh và tăng cường hệ miễn dịch theo cách tự nhiên đã định sẵn.
Sống khỏe mạnh thường rất khó khăn, xét theo lối sống hiện đại. Nhưng thay vì đầu tư vào dinh dưỡng lành mạnh, hình thành thói quen ngủ nghỉ khoa học, tập thể dục và dành thời gian tắm nắng để tăng cường miễn dịch với hầu hết các loại bệnh, chúng ta lại chọn tiêm chủng cho bản thân và con cái.
Thật dễ dàng để biến một điều không đúng sự thật thành một lý thuyết khoa học hợp lý - trong trường hợp vắc-xin, chỉ mất 200 năm.
5.1.4 Đột tử
Hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS) là một thuật ngữ tiện lợi do cơ sở y tế đặt ra để mô tả các trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh do chẩn đoán chưa rõ ràng. Đây là một thuật ngữ tiện lợi để che giấu số lượng trẻ sơ sinh thực sự tử vong do phản ứng bất lợi với vắc-xin.
Ước tính chính thức duy nhất đến từ Hệ thống Báo cáo Tác dụng Phụ của Vắc-xin (VAERS) do Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) và Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) tài trợ. VAERS ghi lại các báo cáo về phản ứng liên quan đến vắc-xin cũng như các trường hợp tử vong ở trẻ sơ sinh do công chúng và bác sĩ gửi đến khi tiêm chủng gặp sự cố. Tuy nhiên, rất ít người biết đến VAERS và cũng rất ít bác sĩ sử dụng hệ thống này. Dưới đây là trích dẫn từ trang web của VAERS:
“Hơn 10 triệu liều vắc-xin được tiêm mỗi năm cho trẻ em dưới 1 tuổi, thường từ 2 đến 6 tháng tuổi. Ở độ tuổi này, trẻ sơ sinh có nguy cơ cao nhất gặp phải một số tác dụng phụ y khoa, bao gồm sốt cao, co giật và Hội chứng Đột tử ở Trẻ sơ sinh. Một số trẻ sơ sinh sẽ gặp phải những tác dụng phụ này ngay sau khi tiêm vắc-xin do tình cờ. Những sự trùng hợp ngẫu nhiên này khiến việc xác định liệu một tác dụng phụ cụ thể là do tình trạng bệnh lý hay do tiêm chủng trở nên khó khăn. Do đó, các nhà cung cấp vắc-xin được khuyến khích báo cáo tất cả các tác dụng phụ sau khi tiêm chủng, bất kể họ có tin rằng việc tiêm chủng là nguyên nhân hay không."
Thống kê của VAERS cho thấy trung bình mỗi năm, các bác sĩ tại Hoa Kỳ báo cáo 11.000 trường hợp biến cố nghiêm trọng liên quan đến vắc-xin. Trong số này, 1% trẻ sơ sinh tử vong sau khi tiêm vắc-xin. Con số này tương đương khoảng 100 trẻ mỗi năm.
Nếu những con số này có vẻ thấp, hãy xem xét ước tính của chính FDA - rằng các bác sĩ chỉ báo cáo 10% các phản ứng phụ nghiêm trọng liên quan đến vắc-xin (nhập viện, bệnh tật đe dọa tính mạng và tàn tật vĩnh viễn) cho VAERS. Do đó, số ca tử vong ở trẻ sơ sinh được báo cáo hàng năm - khoảng 100 - thực ra là vô cùng nhỏ.
Bất kể cộng đồng y khoa có che giấu sự thật đến đâu, các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng SIDS có liên quan đến việc tiêm chủng. Theo một nghiên cứu độc lập, số ca SIDS ở Mỹ cao nhất ở trẻ sơ sinh từ hai đến bốn tháng tuổi, đây là thời điểm trẻ được tiêm vắc-xin đợt đầu tiên. Các nghiên cứu khác đã phát hiện ra khoảng cách ba tuần giữa thời điểm tiêm chủng và tử vong.
Mặc dù không có nghiên cứu nào trong số này có thể khẳng định chắc chắn rằng vắc-xin đã giết chết những trẻ sơ sinh này, nhưng rất khó để đưa ra bất kỳ kết luận nào khác khi xét đến khối lượng nghiên cứu liên quan đến hai biến số này. Bạn cũng có thể nhớ lại rằng ở những quốc gia như Iceland, nơi trẻ em được tiêm chủng chưa đến một phần ba số lượng vắc-xin so với trẻ em ở Hoa Kỳ, tỷ lệ tử vong cũng thấp hơn 50%.
Điều thú vị - và đáng báo động - là dữ liệu của VAERS cho thấy một phần lớn các "biến cố bất lợi" được báo cáo liên quan đến vắc-xin phòng bệnh ho gà (pertussis), một căn bệnh thường được "chữa khỏi" bằng vắc-xin DPT (Bạch hầu, Ho gà và Uốn ván). Các nghiên cứu độc lập cho thấy trẻ em tử vong nhanh gấp tám lần so với bình thường sau khi tiêm DPT.
Xét đến mức độ báo cáo không đầy đủ cho VAERS, rất khó để ước tính có bao nhiêu người bị tàn tật nghiêm trọng do tiêm chủng. Một ước tính, được trích dẫn trong một vụ kiện, cho rằng cứ 300 ca tiêm chủng DPT thì có một ca gây ra động kinh.
Để giải quyết những lo ngại lan rộng về vắc-xin DPT, Chính phủ Liên bang Hoa Kỳ đã thành lập Chương trình Bồi thường Thương tích do Vắc-xin Quốc gia, được gọi một cách rộng rãi là 'Tòa án Vắc-xin', nhằm giải quyết các khiếu nại chống lại các nhà sản xuất vắc-xin trong trường hợp có phản ứng bất lợi với thuốc của họ.
Kể từ khi thành lập năm 1998, NVICP đã nhận được hơn 5.000 yêu cầu bồi thường, trong đó có 700 yêu cầu liên quan đến tử vong do vắc-xin. Tổng số tiền bồi thường cho đến nay là 724 triệu đô la.
>>Tiếp: 5.1.5 Tấn công sớm
4.5 Che dấu Virus
>>Trước: 4.4 Ngữ nghĩa của bệnh tật
Hồ sơ y tế đầy rẫy những ví dụ về việc số liệu thống kê đã bị bóp méo để phục vụ cho những mục đích đen tối. Một cách để làm điều này là che giấu toàn bộ bức tranh. Nếu tách rời một loạt số liệu thống kê y tế ra khỏi bối cảnh, bạn có thể có một cái nhìn méo mó nghiêm trọng về các bệnh truyền nhiễm.
Dưới đây là một ví dụ về cách hai nhà nghiên cứu từ Đại học British Columbia, Vancouver, đã thực hiện điều này trong cuốn sách "Cẩm nang Bệnh Truyền nhiễm". Tranh luận ủng hộ việc tiêm vắc-xin sởi đỏ tại Hoa Kỳ, các tác giả khẳng định rằng việc tiêm chủng vắc-xin này cho người dân (80 triệu liều) sau năm 1963 đã làm giảm số ca mắc bệnh từ 500.000 ca trước năm đó xuống còn khoảng 35.000 ca vào năm 1975.
Những con số này không có gì sai - cho đến khi bạn so sánh chúng với số liệu trước năm 1963 về bệnh sởi đỏ hoặc rubeola. Năm 1958, có 800.000 ca rubeola, cho thấy số ca bệnh thực sự đã giảm trước khi vắc-xin được tiêm vào năm 1963.
Thêm vào số liệu của bức tranh này vào năm 1955, bạn sẽ thấy tỷ lệ tử vong do bệnh sởi đỏ đã giảm 97 phần trăm kể từ đầu những năm 1900!
Tất cả những ồn ào này diễn ra khi có một lời nói dối lớn hơn đang được thực hiện với công chúng Mỹ vào những năm 60. CDC đã công khai thừa nhận rằng vắc-xin rubeola bất hoạt được tiêm từ năm 1963 đến năm 1968 là không hiệu quả, và khuyến cáo người dân nên tiêm lại! Tương tự như vậy là sự sụt giảm lớn về số ca nhiễm sởi đỏ xảy ra trong khoảng thời gian từ năm 1963 đến năm 1968 do vắc-xin không hiệu quả và tình trạng nhiễm trùng tiếp tục giảm sau năm 1968 do vắc-xin hiệu quả sau khi tiêm lại?
Đây là một cách khác mà giới y khoa đã lừa dối không chỉ công chúng mà cả các nhà nghiên cứu trẻ. Xem xét kỹ lưỡng các văn bản và tạp chí y khoa sẽ thấy rằng các bệnh truyền nhiễm trên toàn phổ dường như đã giảm về tỷ lệ mắc và mức độ nghiêm trọng kể từ năm 1940 trở đi.
Liệu có phải ngẫu nhiên mà đây cũng là thời điểm mà những tiến bộ trong thuốc kháng sinh được thực hiện và nhiều chương trình tiêm chủng được triển khai? Việc cố tình loại trừ dữ liệu phản ánh tỷ lệ mắc bệnh trước thời đại tiêm chủng hàng loạt cho thấy vắc-xin là người bảo vệ sức khỏe tốt.
Tuy nhiên, các sinh viên y khoa, bị nhồi nhét vào một bức tranh sai lệch về bệnh tật và những giả định vô căn cứ, do đó coi sách giáo khoa của họ là sự thật tuyệt đối và do đó, theo thời gian, những điều không đúng về y khoa sẽ trở thành 'sự thật'.
Đây là một ví dụ khác về một cơ sở y tế gian dối. Theo tài liệu tuyên truyền do chính quyền một tỉnh ở Úc công bố, một chiến dịch chống bệnh lao kéo dài ba thập kỷ trước những năm 1950 đã làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh này ở nước này.
Một lần nữa, chỉ cần xem qua số liệu thống kê từ những năm 1920 cũng thấy rằng căn bệnh này đã suy giảm từ lâu trước khi thuốc chống lao được đưa vào sử dụng ở nước này. Sự phát triển của y học hiện đại thực ra chẳng liên quan gì đến tình hình. Than ôi, họ luôn nhanh chóng chiếm đoạt công lao.
Vậy các bệnh truyền nhiễm có gây ra mối đe dọa đáng kể nào cho chúng ta hiện nay không? Hãy tự mình kiểm chứng. Theo Tiến sĩ Robert Sears, tác giả của cuốn The Vaccine Book, số ca bệnh ở trẻ em mắc phải trong lịch tiêm chủng vắc-xin tại Hoa Kỳ năm 2007 là:
Phế cầu khuẩn - khoảng 10.000 ca mỗi năm
Bạch hầu - 5 ca mỗi năm, 0 ca một số năm
Uốn ván - 1 trường hợp mỗi năm ở trẻ em dưới 5 tuổi
Bệnh ho gà - khoảng 10.000 ca mỗi năm
Viêm gan B - 30 trường hợp ở trẻ 1 tuổi, 30 trường hợp ở trẻ 1-5 tuổi
Rotavirus - 500.000 ca, 50.000 ca nhập viện, 20-70 cái chết
Bệnh bại liệt - 0 trường hợp kể từ năm 1985
Bệnh sởi - 50-100 ca mỗi năm
Quai bị - 250 ca mỗi năm
Rubella - 250 ca mỗi năm
Thủy đậu - 50.000 ca mỗi năm
Viêm gan A - 10.000 ca mỗi năm, hầu hết ở trẻ em từ 5-14 tuổi
Cúm - Hàng triệu trường hợp
Bệnh viêm màng não mô cầu - khoảng 3000 ca mỗi năm
Xin nhắc lại, tiêm chủng không liên quan gì đến tỷ lệ nhiễm trùng thấp này. Việc cải thiện vệ sinh, dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe và điều kiện sống đã đóng vai trò quan trọng cả trước và sau khi vắc-xin ra đời.
Các quốc gia phát triển khác, chẳng hạn như Iceland, nơi chỉ tiêm một phần ba số vắc-xin cho trẻ em so với Hoa Kỳ, cũng có tỷ lệ suy giảm bệnh truyền nhiễm tương tự như mọi quốc gia khác cải thiện được điều kiện sống.
Tuy nhiên, gian lận vắc-xin phải trả giá đắt. Tại Hoa Kỳ:
1 trong 6 trẻ em được chẩn đoán mắc chứng khó khăn trong học tập
1 trong 9 trẻ em mắc bệnh hen suyễn
1 trong 94 người mắc chứng tự kỷ
1 trong 450 người mắc bệnh tiểu đường
Việc tiêm chủng - hay đúng hơn là đầu độc - hàng triệu trẻ em, từng mũi một, năm này qua năm khác, sẽ để lại cho chúng ta những thế hệ tương lai phải sống chung với khuyết tật và các bệnh mãn tính. Chúng ta đang thực sự nuôi dưỡng những nhóm dân số bệnh tật trong nhiều năm tới, cho đến khi hy vọng một ngày nào đó, vắc-xin sẽ bị cấm vì chúng phần lớn bị coi là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng chăm sóc sức khỏe ngày càng leo thang.
4.6 Chuyển đổi bệnh
Khi thuật ngữ "chẩn đoán lại" được giới y khoa sử dụng, nó đồng nghĩa với "trò lừa bịp". Chẩn đoán lại, hay thay đổi tiêu chuẩn chẩn đoán, thường là một phương tiện làm sai lệch số liệu thống kê để đạt được một mục tiêu đã định trước. Và nhóm vận động hành lang ủng hộ tiêm chủng liên tục sử dụng nó để củng cố tiền đề rằng vắc-xin có hiệu quả.
Theo Liên đoàn Chống Tiêm chủng Quốc gia Anh, hơn 3.000 ca tử vong do thủy đậu đã được báo cáo tại Anh từ đầu thế kỷ 20 đến những năm 1930. Liên đoàn này tiếp tục chỉ ra rằng thủy đậu không phải là một căn bệnh gây tử vong và các ca tử vong này là do bệnh đậu mùa. Các bác sĩ được cho là đã "chẩn đoán lại" các trường hợp đậu mùa là đậu gà vì tất cả những người bị ảnh hưởng đều đã được tiêm vắc-xin phòng bệnh đậu mùa.
Nên nhớ, vắc-xin đậu mùa là "vắc-xin thành công đầu tiên từng được phát triển". Do đó, việc chẩn đoán lại chỉ nhằm che đậy sự bối rối của giới y tế.
>>Tiếp: 5. Chương 3 - Có âm mưu gì không?
4. Chương 2 - Sai lầm lịch sử
>>Trước: 3.8 'Sai lầm' về vắc-xin
3. Chương 1 - Huyền thoại về vắc-xin
Y học hiện đại đã cố gắng thuyết phục chúng ta (và phần lớn là khá thành công) rằng vắc-xin là một loại áo giáp, bảo vệ cơ thể con người khỏi các cuộc tấn công lặp đi lặp lại từ vi trùng gây bệnh.
Nhưng thực tế lại hoàn toàn khác, và đôi khi còn ngược lại. Sự thật là hỗn hợp vắc-xin di truyền và hóa học đã được chứng minh là gây bệnh và thậm chí còn đẩy nhanh sự lây lan của bệnh.
Khi chúng ta nghiên cứu và phân tích hồ sơ lịch sử của nhiều đại dịch đã giết chết nhiều bộ phận lớn dân số trên khắp các châu lục, bạn sẽ tự hỏi có bao nhiêu sinh mạng có thể được cứu nếu hàng trăm nghìn người không được tiêm vắc-xin.
Khi đọc thông tin sau đây, có một số yếu tố bạn có thể cần lưu ý. Nghiên cứu vắc-xin luôn là một lĩnh vực tiên tiến của y học, và tiêm chủng hàng loạt cung cấp cho các nhà nghiên cứu, các công ty dược phẩm và chính phủ một mẫu người sẵn sàng và có thể sử dụng để thử nghiệm các loại thuốc và công thức mới.
Việc đưa những hóa chất này vào cơ thể con người thông qua vắc-xin đôi khi không liên quan gì đến việc tiêm vắc-xin hay sự bùng phát của một căn bệnh cụ thể. Nói cách khác, bất chấp những cân nhắc về mặt đạo đức, các nhà nghiên cứu đã sử dụng hàng loạt tiêm chủng như một nơi thử nghiệm có sẵn hoặc một phòng thí nghiệm dành cho con người.
Trong những trường hợp khác, sự thiếu hiểu biết về khoa học và trang thiết bị cũng như quy trình thử nghiệm không đầy đủ đã dẫn đến những sai sót trong quá trình phát triển vắc-xin, khiến hàng nghìn người tử vong và nhiều người khác phải gánh chịu những căn bệnh tàn phá sức khỏe.
Trong những trường hợp khác, kháng nguyên, chất gây ô nhiễm hoặc chất phụ gia trong vắc-xin thực sự gây ra bệnh tật và tử vong.
4.1 Cuộc tranh cãi về bệnh bại liệt
Không có gì ngạc nhiên khi hơn nửa thế kỷ sau khi vắc-xin bại liệt đầu tiên được phát triển, tranh cãi vẫn tiếp diễn về việc vắc-xin có thể bị nhiễm loại vi-rút SV40 gây chết người.
Virus không bào Simian 40 hay Simian Virus 40 được tìm thấy trong tế bào thận của khỉ Rhesus. SV40 là tác nhân gây ung thư, gây ra các khối u, đặc biệt là sarcoma hoặc ung thư mô liên kết.
Hãy quay ngược thời gian về giữa thế kỷ 20, khi bệnh bại liệt là một cuộc khủng hoảng sức khỏe trên khắp các châu lục và đã cướp đi sinh mạng của hơn 50.000 người chỉ riêng tại Hoa Kỳ. Chẳng trách việc vắc-xin bại liệt đầu tiên do Tiến sĩ Jonas Salk phát triển (vắc-xin bại liệt 'chết' hoặc vắc-xin bại liệt bất hoạt (IPV) vào năm 1953, và vắc-xin bại liệt thứ hai (vắc-xin bại liệt 'sống' hoặc vắc-xin bại liệt uống) do Tiến sĩ Albert Sabin phát triển vào năm 1957, đã được mọi người đón nhận với sự nhẹ nhõm chung.
Chiến dịch tiêm chủng hàng loạt bắt đầu ngay sau khi vắc-xin Salk được các cơ quan liên bang phê duyệt vào năm 1955, và đến năm 1961, hơn 90 triệu người trên toàn cầu đã được tiêm vắc-xin IPV.
Nhưng phải mất hai năm sau khi vắc-xin Salk được phê duyệt, các nhà khoa học mới phát hiện ra rằng nó chứa chủng SV40, vốn sống trong tế bào thận của khỉ Rhesus (tế bào thận của khỉ Rhesus đã được sử dụng để nuôi cấy virus bại liệt). Trong những năm tiếp theo, nhiều nhà khoa học và nghiên cứu nổi tiếng đã xác nhận sự nhiễm bẩn này sau khi chứng minh rằng SV40 có thể lây nhiễm và gây ung thư trong tế bào người.
Gần đây hơn, Tạp chí Y học Hoa Kỳ đã trích dẫn nhiều nghiên cứu báo cáo về sự hiện diện của SV40 từ vắc-xin bại liệt trong khối u não và ung thư xương ở người, u trung biểu mô ác tính và u lympho không Hodgkin.
Vào cuối những năm 50, khi cuộc tranh cãi về SV40 không còn có thể giải quyết được nữa bị bỏ qua, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã ra sắc lệnh rằng các công ty nộp vắc-xin bại liệt để FDA phê duyệt sau ngày 30 tháng 6 năm 1961 phải không bị nhiễm SV40.
Nhưng FDA đã để lại hai lỗ hổng lớn cho các công ty dược phẩm. Thứ nhất, chính phủ cho phép các nhà sản xuất vắc-xin đã sản xuất hàng triệu liều trước ngày 30 tháng 6 năm 1961 được bán vắc-xin cho đến khi hết hạn sử dụng hai năm sau đó.
Thứ hai, FDA không yêu cầu các nhà sản xuất vắc-xin phải loại bỏ mẫu nuôi cấy mô và các vật liệu liên quan khác. Một số nhà sản xuất vắc-xin tuyên bố đã làm để chứng minh vắc-xin của họ đạt tiêu chuẩn sau năm 1961 bằng cách thêm kháng thể thỏ kháng SV40 vào mẫu nuôi cấy vi-rút để vô hiệu hóa vi-rút ở khỉ!
Với việc các công ty dược phẩm luôn khóa chặt cơ sở của mình, không có cách nào để chính thức chứng minh rằng họ thực sự đã làm điều này. Hơn nữa, giả định rằng các kháng thể thỏ này có hiệu quả chống lại SV40 chưa bao giờ được chứng minh. Hơn nữa, các nhà sản xuất vắc-xin chưa bao giờ buộc phải chứng minh rằng họ thực sự đã tiêu hủy số hàng bị ô nhiễm trị giá hàng triệu đô la.
Bất chấp trò hề này, bốn thập kỷ sau khi vắc-xin bại liệt đầu tiên được phát triển, Tổ chức Y tế Thế giới WHO đã tuyên bố vào năm 1994 rằng họ đã xóa sổ được căn bệnh bại liệt khỏi hành tinh.
Tuy nhiên, thiệt hại đã xảy ra. Trong một lời thừa nhận thẳng thắn, Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã công bố rằng khoảng 10-30 triệu người Mỹ có thể đã được tiêm vắc-xin IPV nhiễm SV40, trong khi 10.000 người khác có thể đã được tiêm vắc-xin OPV. Điều mà CDC không đề cập đến là hàng triệu người ở Liên Xô cũ, nơi các thử nghiệm lâm sàng về OPV đã được tiến hành, cũng đã được tiêm vắc-xin này.
Đây là một cách khác để trình bày lập luận rằng vắc-xin bại liệt không tạo ra miễn dịch. Nếu virus sống trong vắc-xin vẫn có thể gây ra bệnh bại liệt ngày nay khi tiêu chuẩn vệ sinh và vệ sinh cao, thì có thể giả định rằng các dịch bệnh bại liệt nửa thế kỷ trước cũng là do tiêm chủng phòng bệnh khi các tiêu chuẩn về vệ sinh, nhà ở và dinh dưỡng còn tương đối thô sơ. Điều hoàn toàn rõ ràng là tỷ lệ nhiễm trùng cao ở những khu vực có điều kiện vệ sinh kém. Điều quan trọng cần biết là chỉ 0,1% trong số tất cả các trường hợp nhiễm bại liệt có khả năng tiến triển thành bại liệt. Các triệu chứng còn lại giống với các bệnh nhiễm virus khác như cúm.
Bất kể điều gì có thể đã gây ra sự bùng phát bệnh bại liệt trong quá khứ, thì về mặt đạo đức, luân lý và y khoa ngày nay, việc tiêm chủng cho một bộ phận lớn dân số chống lại một căn bệnh hầu như không còn tồn tại nữa nhưng có thể quay trở lại do tiêm chủng hàng loạt là điều đáng ngờ.
4.2 Vắc-xin gây bệnh
Có quá đủ bằng chứng cho thấy vắc-xin đã nhiều lần thất bại trong việc ngăn ngừa bệnh tật. Thực tế, lịch sử đã ghi nhận nhiều trường hợp tiêm chủng trong thời kỳ dịch bệnh thực sự lại dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh và lây lan thêm các bệnh mà chúng được cho là có thể ngăn ngừa và tiêu diệt.
Tuy nhiên, với sự thao túng thống kê và tuyên truyền ủng hộ vắc-xin, giới y khoa đã có thể thuyết phục hầu hết chúng ta rằng những chất hóa học này bảo vệ cơ thể con người khỏi bệnh tật và tử vong.
Sau cuộc tranh cãi về bệnh bại liệt, chúng ta hãy cùng rút ra một bài học lịch sử khác. Bệnh đậu mùa đã hoành hành khắp châu Âu vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, gây ra những tổn thất nặng nề, cho đến khi Anh cuối cùng thông qua luật bắt buộc tiêm vắc-xin phòng bệnh đậu mùa trên toàn dân vào năm 1854.
Đó là một sai lầm tai hại. Trong những năm sau năm 1854, mỗi đợt bùng phát đậu mùa thành công đều trùng với một chiến dịch tiêm chủng hàng loạt. Nói cách khác, tỷ lệ mắc bệnh tăng đột ngột sau khi vắc-xin được tiêm cho dân chúng hàng loạt.
Đại dịch London (1857-1859) đã cướp đi sinh mạng của hơn 14.000 người; đợt bùng phát năm 1863-1865 khiến 20.000 người tử vong; và từ năm 1871 đến năm 1873, bệnh đậu mùa lan rộng khắp châu Âu, ghi nhận đợt dịch bệnh tồi tệ nhất trong lịch sử. Chỉ riêng ở Anh và xứ Wales, căn bệnh này đã cướp đi sinh mạng của 45.000 người mặc dù 97% dân số đã được tiêm phòng!
Đức cũng trải qua những khó khăn tương tự do tiêm chủng. Nước này đã thông qua luật cho phép tiêm chủng bắt buộc vào năm 1834. Tuy nhiên, khi căn bệnh hoành hành khắp nước Anh, Đức cũng bị ảnh hưởng nặng nề.
Mặc dù đã triển khai chiến dịch tiêm chủng nghiêm ngặt, bao phủ 96% dân số, cả nước vẫn ghi nhận 125.000 ca tử vong vì bệnh đậu mùa. Trong số đó, 17.000 ca ở Berlin xảy ra trong số những người đã được tiêm chủng đầy đủ. Thật khó hiểu phải không?
Nhưng riêng châu Âu không phải là nơi duy nhất gánh chịu những sai lầm của lịch sử. Việc tiêm vắc-xin phòng đậu mùa bắt buộc vào năm 1872 tại Nhật Bản đã khiến dịch bệnh bùng phát hàng năm sau đó, cho đến khi nước này ghi nhận 165.000 ca mắc và 30.000 ca tử vong vào năm 1892. Trớ trêu thay, hầu hết các nạn nhân đều đã được tiêm vắc-xin phòng đậu mùa.
Việc tiêm chủng bắt buộc được áp dụng ở Philippines vào đầu thế kỷ 20, dường như đã dẫn đến sự suy giảm đáng kể bệnh đậu mùa ở quốc gia này. Tuy nhiên, không hiểu sao căn bệnh này lại giáng một đòn chí mạng vào giai đoạn từ năm 1917 đến năm 1919, gây ra một trận dịch khiến 160.000 ca nhiễm và 70.000 ca tử vong. Tại đây, những người bị ảnh hưởng cũng đã được tiêm chủng đầy đủ.
Có thể có một số lý do tại sao vắc-xin đậu mùa không có hiệu quả vào thời điểm đó, lý do đáng sợ và thực tế nhất là tiền đề mà vắc-xin đậu mùa dựa trên lại có sai sót.
Vắc-xin đậu mùa được sản xuất từ vật liệu di truyền có trong bệnh đậu mùa bò, một bệnh ở bò với đặc điểm là các tổn thương mụn mủ trên bầu vú. Nhân tiện, đó là virus đậu mùa bò - hay còn gọi là virus vaccinia - điều này đã dẫn đến thuật ngữ chung là 'vắc-xin'.
Mặc dù quy trình sản xuất vắc-xin đã được cải tiến ngày nay, vắc-xin đậu mùa vẫn được tạo ra từ vi-rút vaccinia, và mặc dù giới khoa học ngày nay công khai phủ nhận điều này, nhưng cái gọi là thành công của nó dựa trên những giả định thuần túy hơn là thử nghiệm khoa học.
Những giả định này được đưa ra bởi một bác sĩ người Anh thế kỷ 18 tên là Edward Jenner, người đã quan sát thấy những người vắt sữa và nông dân làm việc với những con bò bị nhiễm bệnh đậu mùa dường như có khả năng kháng bệnh đậu mùa.
Jenner tiến xa hơn một bước và thử nghiệm virus đậu bò và đậu mùa trên người. Năm 1796, ông tiêm virus đậu mùa vào một bé trai tám tuổi mà ông đã tiêm phòng đậu bò trước đó và quan sát thấy đứa trẻ không tử vong. (!) Sau đó, Jenner tuyên bố rằng "lý thuyết tiêm chủng" của ông đã thành công.
Thí nghiệm này và các 'thí nghiệm' khác do Jenner thực hiện, tất cả đều dựa trên sự quan sát lỏng lẻo, đã thuyết phục được giới y khoa lúc bấy giờ rằng ông đã tìm ra vắc-xin phòng bệnh đậu mùa.
Sẽ ra sao nếu không phải bệnh đậu mùa bò mà chính hệ miễn dịch của con người đã ngăn ngừa "đối tượng" của Jenner mắc bệnh đậu mùa? "Bằng chứng" của vị bác sĩ người Anh cho thấy vắc-xin thực sự có hiệu quả là việc tập hợp những người nông dân đã mắc bệnh đậu mùa bò và tiêm cho họ vật liệu lấy từ các vết thương do bệnh đậu mùa. Khi những người nông dân không có triệu chứng bệnh đậu mùa, Jenner đã lấy đó làm "bằng chứng".
Nếu những người nông dân này đã có được khả năng miễn dịch với bệnh đậu mùa nhờ tiếp xúc với căn bệnh này từ những người khác bị nhiễm thì sao? Khi những người khác đưa ra những trường hợp hoàn toàn ngược lại, Jenner lại lên tiếng phản bác những tuyên bố này!
Nửa thế kỷ sau, nước Anh và phần còn lại của thế giới đã phải trả giá cho những tuyên bố phi khoa học và khó tin của Jenner.
Lịch sử tiêm chủng tiếp tục phơi bày những tuyên bố và lời đồn thổi của các tổ chức toàn cầu như WHO và Hội Chữ thập đỏ, những đơn vị tiên phong trong các chương trình tiêm chủng trên toàn thế giới. Tuy nhiên, WHO đã phải chịu một cú sốc lớn khi Ghana được tổ chức y tế toàn cầu này tuyên bố đã xóa sổ bệnh sởi vào năm 1967, sau một chiến dịch tiêm chủng hàng loạt bao phủ hơn 90% dân số cả nước.
WHO lẽ ra nên thận trọng hơn trước khi đưa ra những tuyên bố táo bạo và tự mãn như vậy, bởi vì từ năm 1970 đến năm 1972, Ghana đã phải hứng chịu một trong những đợt bùng phát bệnh sởi tồi tệ nhất từ trước đến nay. Tạp chí Nhi khoa Nhiệt đới đưa tin rằng 235.930 trường hợp đã được ghi nhận trong giai đoạn đó, bao gồm 834 ca tử vong.
Các đợt bùng phát bệnh sởi và các chương trình tiêm chủng vẫn tiếp diễn ở Ghana ngày nay, biến những sai lầm trong lịch sử thành ngành công nghiệp trị giá hàng tỷ đô la cho các công ty dược phẩm sản xuất loại vắc-xin này.
Tuyên bố rằng vắc-xin sởi bảo vệ chống lại bệnh sởi là hoàn toàn không có căn cứ. Mặc dù hầu hết trẻ em Nhật Bản đều được tiêm vắc-xin phòng bệnh sởi, một đợt bùng phát bệnh sởi xảy ra ở Nhật Bản vào tháng 4 năm 2007, gây ra tổng cộng 27.600 trường hợp.
Hoa Kỳ không hề miễn nhiễm với những tuyên bố hùng hồn của nhóm vận động hành lang ủng hộ tiêm chủng. Năm 1989, dịch sởi bùng phát tại các trường học ở Mỹ, nơi 98% trẻ em đã được tiêm chủng.
Những đợt bùng phát này được ghi nhận ở nhiều vùng địa lý.
Năm 1990, Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ thừa nhận rằng mặc dù 95% trẻ em trong độ tuổi đi học được tiêm chủng vắc-xin sởi hàng loạt, nhưng vẫn chưa thể ngăn chặn hoàn toàn căn bệnh này. Vụ việc đã gây ra một cuộc tranh luận gay gắt, khi một số nhà nghiên cứu cho rằng tiêm chủng làm suy yếu hệ miễn dịch, dẫn đến nguy cơ nhiễm trùng nói chung.
Lý do cho việc vắc-xin lây lan bệnh tật trở nên chắc chắn khi bạn tính đến bệnh ho gà, bệnh lao, bệnh bạch hầu và hầu hết mọi bệnh truyền nhiễm khác.
Trong một động thái táo bạo, Thụy Điển đã quyết định ngừng tiêm vắc-xin ho gà cho người dân vào năm 1979 khi đất nước này phát hiện ra rằng trong số 5.140 trường hợp mắc bệnh vào năm 1978, hơn 80 phần trăm đã được tiêm vắc-xin ba lần.
Tạp chí Y học New England đã đưa tin về một nghiên cứu được thực hiện vào năm 1994 cho thấy hơn 80 phần trăm trẻ em dưới năm tuổi mắc bệnh ho gà đã được tiêm chủng chống lại căn bệnh này.
Tại Vương quốc Anh, Trung tâm Giám sát Bệnh tật Cộng đồng đã phát hiện hơn 200.000 trường hợp ho gà ở trẻ em từ năm 1970 đến năm 1990. Tất cả những trẻ em này đều đã được tiêm vắc-xin.
Quay trở lại bệnh bại liệt, sau khi chương trình tiêm chủng hàng loạt được triển khai tại Hoa Kỳ vào năm 1955, số ca mắc bệnh bại liệt đã tăng 50 phần trăm từ năm 1957 đến năm 1958 và tăng 80 phần trăm từ năm 1958 đến năm 1959.
Tại năm tiểu bang, số ca bại liệt đã tăng gấp đôi sau khi vắc-xin được tiêm cho số lượng lớn người dân. Ngay khi điều kiện vệ sinh được cải thiện, bất chấp các chương trình tiêm chủng, căn bệnh do virus này gây ra đã nhanh chóng biến mất.
4.3 Ồ! Chúng tôi quên mất!
Có một số kết luận chúng ta có thể rút ra từ dữ liệu được trình bày ở trên. Quan trọng nhất trong số đó là lịch sử chưa chứng minh được mối liên hệ nhân quả nào giữa việc tiêm chủng và khả năng bảo vệ khỏi bệnh tật.
Hệ thống miễn dịch là yếu tố quan trọng nhất quyết định một cá nhân có mắc một bệnh nào đó hay không. Đây cũng là một yếu tố chưa được tính đến trong quá trình phát triển vắc-xin.
Tất cả những gì các nhà nghiên cứu tiên phong này ghi nhận được là sự hiện diện hoặc vắng mặt của bệnh ở những cá nhân họ quan sát trong quá trình thực hiện thí nghiệm. Không có nghiên cứu dài hạn nào (và vẫn chưa có) và không có nhóm đối chứng nào được sử dụng.
Các yếu tố quan trọng khác góp phần vào sự phát triển và lây lan của bệnh là điều kiện sống. Điều kiện sống kém chất lượng, tình trạng quá tải, môi trường mất vệ sinh, suy dinh dưỡng, và quan trọng nhất là thiếu vitamin D do không tiếp xúc thường xuyên với ánh nắng mặt trời, làm suy yếu hệ miễn dịch một cách có hệ thống, từ đó ảnh hưởng đến khả năng duy trì cân bằng nội môi và phòng ngừa bệnh tật.
Không phải ngẫu nhiên mà các đợt bùng phát dịch bệnh đã giảm dần theo thời gian khi chất lượng cuộc sống được cải thiện. Cũng theo thước đo đó, bệnh tật gây thiệt hại nặng nề hơn nhiều ở các nước nghèo, nơi tình trạng suy dinh dưỡng, nước ô nhiễm và điều kiện vệ sinh kém lan rộng.
Một thiếu sót rõ ràng khi thực hiện thống kê số người nhiễm bệnh trong một trận dịch hoặc thống kê số người chết là cơ sở y tế chưa bao giờ dừng lại để tìm hiểu về tiền sử bệnh án của những cá nhân bị ảnh hưởng bởi loại vi-rút 'sát thủ' đó.
Mặc dù vậy, trong thời gian bùng phát dịch bệnh, bệnh bại liệt, bệnh đậu mùa và Virus ho gà, cùng nhiều loại virus khác, thường bị đổ lỗi cho những trường hợp mà hệ miễn dịch suy yếu có thể không giúp họ tránh khỏi hầu hết các bệnh tật. Điều này đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về nền tảng của lý thuyết vắc-xin và cái gọi là hiệu quả của vắc-xin.
Đây cũng là một vấn đề đã được ghi chép lại. Một nghiên cứu do Hiệp hội Phát triển Khoa học Anh thực hiện cho thấy việc cải thiện vệ sinh và an toàn thực phẩm từ năm 1850 đến năm 1940 đã góp phần làm giảm 90% các bệnh tật ở trẻ em nói chung.
Tại Hoa Kỳ, Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Metropolitan đã ghi nhận bốn nguyên nhân gây tử vong hàng đầu do các bệnh truyền nhiễm từ năm 1911 đến năm 1935. Trong đó có bệnh bạch hầu, sốt ban đỏ, ho gà và bệnh sởi.
Đến năm 1945, số người chết vì những căn bệnh này đã giảm đáng kể 95% trước khi các chương trình tiêm chủng đại trà được triển khai. Một lần nữa, sự suy giảm đáng kể này là nhờ cải thiện điều kiện vệ sinh, dinh dưỡng và nhà ở.
Hỗ trợ cho lập luận về vệ sinh dẫn đến giảm tỷ lệ tử vong là Báo cáo hàng tuần về bệnh tật và tử vong của CDC ngày 30 tháng 7 năm 1999, trong đó trích dẫn vệ sinh tốt hơn, chất lượng nước, vệ sinh và sự giới thiệu của thuốc kháng sinh là yếu tố quan trọng nhất trong việc kiểm soát bệnh tật trong thế kỷ 20.
Phải chăng những tiến bộ này (ngoại trừ thuốc kháng sinh làm suy yếu hệ miễn dịch) đã giúp tăng cường sức khỏe và khả năng miễn dịch, cứu sống nhiều người, chứ không phải vắc-xin? Các mốc thời gian giảm dần và tăng dần của bệnh tật và điều kiện sống tốt hơn, tương ứng, gần như trùng khớp hoàn hảo đến mức không thể bỏ qua kết luận này.
Nhưng khi nói đến tiêm chủng, còn có những yếu tố đen tối hơn đang diễn ra - việc cố tình bóp méo sự thật để phục vụ cho động cơ thầm kín của giới y tế và các công ty dược phẩm. Điều này bao gồm việc làm giả dữ liệu, chẩn đoán sai bệnh, báo cáo thiếu bệnh ở những bệnh nhân đã được tiêm chủng và báo cáo quá mức về bệnh ở những bệnh nhân chưa từng mắc bệnh. Tất cả những điều này chỉ để củng cố cho giả thuyết rằng vắc-xin cứu sống con người!
4.4 Ngữ nghĩa của bệnh tật
Một trong những yếu tố rõ ràng nhất ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc bệnh - hoặc tỷ lệ mắc bệnh rõ ràng - của một bệnh truyền nhiễm chính là định nghĩa của nó. Lịch sử đã chứng minh rằng chỉ cần một chút khéo léo, hay vài nét bút, bệnh tật có thể xuất hiện, biến mất hoặc trông bớt nguy hiểm hơn.
Ở Hoa Kỳ, trong quá trình thử nghiệm vắc-xin Salk, dường như đã có sự suy giảm đáng kể về số ca mắc bệnh bại liệt từ năm 1954 đến năm 1957. Nhưng bạn có biết rằng định nghĩa về bệnh bại liệt đã được viết lại trong thời gian đó không?
Chỉ bằng một cú đột phá thiên tài này, số ca bại liệt đã được định sẵn sẽ giảm trong thời điểm quan trọng này - được chọn cụ thể vì vắc-xin Salk được chính thức phê duyệt vào năm 1955, khi chương trình tiêm chủng hàng loạt được triển khai. Đây là một nỗ lực có chủ đích nhằm ám chỉ rằng vắc-xin mới chính là nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm của căn bệnh truyền nhiễm này.
Cộng đồng y tế đã thực hiện ba bước để đảm bảo điều này. Thứ nhất, các bệnh trước đây bị chẩn đoán nhầm là bại liệt giờ đây đột nhiên bị loại khỏi định nghĩa của bệnh. Các bệnh này bao gồm viêm màng não do virus và viêm màng não vô khuẩn, vốn đã ảnh hưởng đến hàng nghìn trẻ em ở Hoa Kỳ hàng năm.
Mặc dù giới y khoa có thể đã sửa một sai sót, nhưng việc làm đó vào thời điểm này lại phục vụ cho mục đích của những người thúc đẩy vắc-xin bại liệt. Ngược lại, bằng một trò lừa bịp tinh vi, các trường hợp bại liệt không liệt giờ đây lại được phân loại là viêm màng não do virus hoặc viêm màng não vô khuẩn!
Như thể điều này chưa đủ, một cơ sở y tế quá nhiệt tình còn quyết tâm giảm tỷ lệ mắc bệnh truyền nhiễm rõ ràng hơn nữa. Do đó, họ đã nâng giới hạn tuyên bố dịch bệnh từ 20 lên 35 trên 100.000 người. Điều này có nghĩa là cần phải có nhiều ca bệnh hơn để tuyên bố rằng căn bệnh đã đạt đến mức báo động.
Định nghĩa về bệnh bại liệt đã được sửa đổi một cách nghiêm túc hơn nữa. Để được coi là bại liệt, các triệu chứng liệt giờ đây phải kéo dài trong 60 ngày thay vì chỉ 24 giờ. Thật tiện lợi phải không?
>>Tiếp: 4.5 Che dấu Virus
3.8 'Sai lầm' về vắc-xin
>>Trước: 3.7 Có gì trong lọ đó?
Mối nguy hiểm từ vắc-xin không chỉ đến từ những thành phần nguy hiểm có trong đó. Còn có những mối lo ngại nghiêm trọng khác. Trong số đó có những lỗ hổng lớn về kiến thức khoa học hiện hữu trong y học hiện đại. Những lỗ hổng này sau đó được lấp đầy bởi cái mà các nhà nghiên cứu gọi là "lý thuyết", trở thành nền tảng cho các chính sách của chính phủ và thậm chí là việc sản xuất thuốc với mục đích phòng ngừa bệnh tật.
Khi những sai lầm này là "sự sơ suất bất cẩn" của các công ty dược phẩm, sinh mạng con người bị cướp đi và nhiều người mắc bệnh hiểm nghèo. Hậu quả của dịch bò điên và cách xử lý của cả chính phủ lẫn các công ty dược phẩm đã để lại một di sản gây tranh cãi, vẫn ảnh hưởng đến cuộc sống con người.
Bệnh bò điên, còn được gọi là Bệnh não xốp ở bò (BSE), được phát hiện lần đầu tiên ở gia súc vào giữa những năm 1980 tại Anh. Đây là một bệnh thoái hóa thần kinh gây tử vong, trong đó các protein bị nhiễm trùng gọi là pri-on xâm nhập vào não, tủy sống cũng như các mô khác ở gia súc bị ảnh hưởng. Những prion này thực sự ăn mòn mô não mềm, tạo ra các lỗ hổng khiến mô não trông giống như một miếng bọt biển.
Khoảng một thập kỷ sau khi dịch bệnh bùng phát, vào giữa những năm 1990, các bác sĩ ở Anh đã quan sát thấy một căn bệnh ở người mà họ tin rằng đã mắc phải do ăn thịt bò và các sản phẩm động vật khác từ những con bò bị nhiễm bệnh BSE.
Căn bệnh này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1996 và được cho là một biến thể của bệnh Creutzfeldt-Jakob hay vCJD. Vì vCJD có thời gian ủ bệnh kéo dài đến vài năm, nên người ta cho rằng các nạn nhân đã từng ăn thịt bò và các sản phẩm khác từ những con bò bị nhiễm BSE một thập kỷ trước đó. Tính đến năm 2009, căn bệnh này đã cướp đi sinh mạng của hơn 160 người ở Anh.
Cả bệnh bò điên và vCJD đều là các dạng bệnh não xốp. Tuy nhiên, cho đến nay, khoa học vẫn chưa thể chứng minh mối liên hệ nhân quả giữa hai bệnh này. Làm sao chúng ta biết chắc chắn rằng vCJD, được các nhà khoa học đặt tên cho căn bệnh này lần đầu tiên mô tả vào những năm 1920, không tiến hóa thành một chủng mới độc lập với biến thể động vật?
Tuy nhiên, được thúc đẩy bởi sự hoảng loạn của cộng đồng khoa học và y tế, chính phủ Anh đã mở rộng nguồn tài trợ cho nghiên cứu về vCJD, một động thái có lẽ xuất phát từ động cơ chính trị nhiều hơn là khoa học.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố rằng "giả thuyết về mối liên hệ giữa vCJD và BSE lần đầu tiên được đưa ra do sự liên quan của hai bệnh TSE (Bệnh não xốp lây truyền) này về mặt thời gian và địa điểm".
Bài báo bổ sung: "Bằng chứng gần đây hơn ủng hộ mối liên hệ này bao gồm việc xác định các đặc điểm bệnh lý tương tự như vCJD trong não của khỉ đuôi dài được tiêm chủng BSE. Mối liên hệ giữa vCJD và BSE được củng cố thêm bằng chứng cho thấy vCJD có liên quan đến một dấu hiệu phân tử giúp phân biệt nó với các dạng CJD khác và tương tự như dấu hiệu được thấy ở BSE lây truyền sang một số loài khác."
Tuy nhiên, nếu vCJD thực sự bắt nguồn từ "bò điên", thì hậu quả có thể đã rất nghiêm trọng. Sự thật đáng kinh ngạc là mặc dù nhận thức được những rủi ro khi sử dụng vật liệu từ bò (mô, huyết thanh bê, da bò và xương dùng để làm gelatin nuôi cấy virus) trong sản xuất vắc-xin, các công ty dược phẩm ở Anh vẫn tiếp tục bí mật sử dụng vật liệu từ bò để sản xuất vắc-xin.
Một cuộc điều tra do tờ báo Anh The Daily Ex-press thực hiện vào ngày 2 tháng 5 năm 2000 đã tiết lộ rằng bảy loại vắc-xin có nguy cơ bị nhiễm bẩn. Những loại vắc-xin này đã được tiêm cho hàng triệu trẻ em từ năm 1988 đến năm 1989 và được sử dụng cho đến năm 1993.
Vắc-xin do hai công ty dược phẩm lớn sản xuất đã được xác định cụ thể:
· Vắc-xin MMR (Sởi, Quai bị, Rubella) (GlaxoSmithKline)
· Nhiều loại vắc-xin phòng bệnh Bạch hầu, Uốn ván và Ho gà (Wellcome)
· Vắc-xin bại liệt uống (Wellcome)
· Vắc-xin bại liệt bất hoạt (GlaxoSmithKline)
Tiếng chuông cảnh báo cũng vang lên ở Mỹ, và sau đó họ đã lập một danh sách các loại vắc-xin nghi ngờ. Các cơ quan y tế Hoa Kỳ nghi ngờ rằng nguyên liệu từ bò được sử dụng để sản xuất chúng đến từ các quốc gia đang bị ảnh hưởng bởi bệnh bò điên. Danh sách bao gồm:
· Vắc-xin OmniHIB hoặc vắc-xin cúm (Aventis Pasteur)
· Vắc-xin kết hợp phòng bệnh bạch hầu, ho gà và uốn ván (North American Vaccine và GlaxoSmithKline)
· Vắc-xin viêm gan A Havrix (GlaxoSmithKline)
Dữ liệu trên minh họa cách các chính phủ và nhà hoạch định chính sách đưa ra quyết định bao quát dựa trên giả thuyết thuần túy và cách các công ty dược phẩm vô đạo đức cố tình tham gia vào các hành vi phạm tội mà không quan tâm đến mạng sống mà họ tuyên bố bảo vệ.
Cuối cùng, chúng ta có thực sự biết thứ gì đang được cho vào lọ thuốc đó không?
>>Tiếp: 4. Chương 2 - Sai lầm lịch sử
3.6 Lây nhiễm cho người tình nguyện
>>Trước: 3.5 Vắc-xin ức chế miễn dịch
Năm 2006, một nhóm các nhà khoa học nghiên cứu từ Trung tâm Y học Di truyền Duke, Đại học Virginia, Đại học Michigan và Trung tâm Tài nguyên Di truyền Quốc gia đã thực hiện một dự án với tổng cộng 57 tình nguyện viên. Những người tham gia bị nhiễm virus cảm lạnh, virus cúm hoặc virus hợp bào hô hấp qua đường mũi. Sau đó, 28 tình nguyện viên đã xuất hiện các triệu chứng giống cúm hoặc cảm lạnh.
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định xem có bất kỳ gen nào trong số hơn 20.000 gen trong cơ thể người có trải qua bất kỳ thay đổi nào để đáp ứng với việc tiếp xúc với virus hay không. Theo đó, trong số 28 người tham gia nghiên cứu bị bệnh, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một bộ khoảng 30 gen được kích hoạt để phản ứng với việc bị nhiễm virus. Trong số 29 người không bao giờ xuất hiện triệu chứng, không có thay đổi nào đối với nhóm gen này.
Tôi sẽ không bình luận về những hàm ý về mặt bộ gen của nghiên cứu này vì ai cũng biết rằng các mảnh protein lạ (gọi là virus) có thể kích hoạt gen. Tôi muốn đặt câu hỏi tại sao 29 người tham gia không bao giờ phát triển bất kỳ triệu chứng nào vẫn khỏe mạnh mặc dù có cùng mức độ tiếp xúc với vi trùng gây bệnh. Tại sao virus ở những cá nhân này không thể kích hoạt 30 gen này? Nếu virus cúm xâm nhập thành công vào cơ thể, điều gì quyết định cơ thể có đáp ứng sự xâm nhập bằng một loạt kháng thể và phản ứng viêm hay không? Câu trả lời khá đơn giản. Rõ ràng, những người tham gia khỏe mạnh không bị bệnh do virus vì virus không thể khiến người khỏe mạnh bị bệnh. Gen của họ vẫn không bị ảnh hưởng bởi sự xâm nhập của virus.
Mặt khác, tại sao nhóm 28 người tham gia còn lại lại bị ốm?
Câu trả lời là chỉ những người không khỏe mạnh mới có thể bị bệnh do vi-rút.
Như đã đề cập trước đó, vi-rút có thể kích hoạt quá trình làm sạch mạnh mẽ và phản ứng chữa lành trong cơ thể giúp đưa cơ thể bị tắc nghẽn, nhiễm độc trở lại trạng thái cân bằng hơn.
Trước khi cho rằng virus gây bệnh, thay vì phục hồi sức khỏe đang suy yếu của một người, sẽ là khôn ngoan nếu xem xét sơ qua lý do tại sao cái gọi là dịch bệnh thực sự xảy ra. Trong đại dịch H1N1 năm 2009, truyền thông đưa tin rằng một số trẻ mới biết đi đã xuất hiện các triệu chứng cúm lợn và sau đó tử vong. Thực tế, những đứa trẻ này chưa từng tiếp xúc với bất kỳ ai mang virus H1N1 hoặc bất kỳ loại virus truyền nhiễm nào khác. Tuy nhiên, tất cả những đứa trẻ này đều mắc một bệnh lý nền nghiêm trọng, chẳng hạn như bệnh tim.
Tương tự như vậy, có hàng ngàn trẻ em xét nghiệm dương tính với virus HIV, nhưng cả cha và mẹ đều âm tính. Thậm chí một số trẻ sơ sinh có kết quả xét nghiệm dương tính với HIV trong khi cha mẹ chúng thì không. Nếu không ai lây nhiễm cho những đứa trẻ này, vậy tại sao chúng lại bị nhiễm? Đây là một câu hỏi khó trả lời với các quan chức y tế vì nó hoàn toàn trái ngược với lý thuyết vi trùng học, vốn cho rằng vi trùng gây bệnh lây truyền từ người sang người. Trên thực tế, một hệ miễn dịch khỏe mạnh, mạnh mẽ và cơ thể không có độc tố sẽ không cần phải nhiễm trùng để trở lại trạng thái cân bằng, và do đó sẽ không bị ảnh hưởng bởi các tác nhân gây bệnh.
Có một số lý do khiến trẻ em có thể bị ốm. Thứ nhất, máu của trẻ chưa bao giờ có cơ hội được nhau thai của mẹ làm sạch hoàn toàn vì dây rốn bị kẹp ngay sau khi sinh thay vì 40-60 phút sau đó. Kẹp rốn sớm cũng khiến nồng độ oxy trong máu của trẻ sơ sinh chỉ còn không quá 60% so với mức bình thường.
Thứ hai, hệ miễn dịch đang phát triển của trẻ bị tổn thương do tiêm nhiều loại vắc-xin ngay từ khi sinh ra, bao gồm cả vắc-xin viêm gan B không cần thiết (vắc-xin này được tiêm cho một căn bệnh mà trẻ em hiếm khi mắc phải, và dù sao thì trẻ cũng cần tiêm lại khi lớn hơn một chút do kháng thể bị suy giảm). Tiêm nhôm và formaldehyde có trong Vắc-xin này dùng cho trẻ sơ sinh sẽ khiến mọi bậc cha mẹ và bác sĩ lo lắng.
Thứ ba, trẻ sơ sinh không được bú sữa mẹ hoặc mẹ không khỏe mạnh và không sản xuất được sữa mẹ chất lượng tốt sẽ không thể xây dựng được hệ thống miễn dịch khỏe mạnh bình thường.
Thứ tư, theo chỉ định của bác sĩ, trẻ sơ sinh được tránh xa ánh nắng mặt trời ít nhất sáu tháng sau khi sinh và do đó bị thiếu hụt vitamin D. Ngược lại, các bà mẹ ở châu Phi thường xuyên đưa con mới sinh ra ra nắng, và do đó những đứa trẻ này hiếm khi bị thiếu hụt vitamin D. Vitamin D rất cần thiết cho việc xây dựng một hệ thống miễn dịch mạnh mẽ. Một nghiên cứu gần đây của các nhà nghiên cứu tại Đại học Bang Oregon cho thấy vitamin D rất quan trọng đối với hoạt động của hệ miễn dịch, đến nỗi khả năng tăng cường chức năng miễn dịch và duy trì sự bảo vệ và khỏe mạnh của vitamin D đã được bảo tồn trong bộ gen của chúng trong hơn 60 triệu năm tiến hóa.
Adrian Gombart, phó giáo sư hóa sinh và là nhà nghiên cứu chính tại Viện Linus Pauling thuộc Đại học bang Oregon, cho biết: "Sự tồn tại và tầm quan trọng của phần phản ứng miễn dịch này chứng minh rõ ràng rằng con người và các loài linh trưởng khác cần duy trì đủ lượng vitamin D".
Vitamin D, thực chất là một hormone steroid được sản sinh với số lượng lớn nhờ tiếp xúc thường xuyên với ánh nắng mặt trời, điều chỉnh hơn 2.000 gen. Nó hoạt động như một công tắc kích hoạt hệ thống tự chữa lành của cơ thể, duy trì hoạt động và khả năng phản ứng. Nếu thiếu hụt vitamin D, công tắc sẽ bị tắt và khả năng tự chữa lành và giải độc của cơ thể giảm đáng kể. Điều này, đến lượt nó, ngăn chặn khả năng tự chữa lành và đào thải độc tố của cơ thể, bao gồm cả những độc tố do vi sinh vật tạo ra.
Kết quả là, người thiếu vitamin D, dù là trẻ em hay người lớn, sẽ bị tích tụ quá nhiều độc tố đến mức ngày càng nhiều tế bào bị tổn thương hoặc chết đi, do đó, cần phải có nhiễm trùng để kích hoạt phản ứng chữa lành và làm sạch mạnh mẽ. Như đã thấy ở trên
Như đã đề cập ở trên, việc người bệnh có nhiễm virus hay vi khuẩn từ người khác hay không không quan trọng, mặc dù điều này chắc chắn có thể đẩy nhanh tốc độ xuất hiện các triệu chứng bệnh. Cơ thể chúng ta là nơi trú ngụ của vô số loài vi khuẩn và nhiều loại virus ẩn náu và tiềm ẩn, nhưng sẽ được kích hoạt và nhân lên khi cần sự hỗ trợ của chúng. Thông thường, tình trạng nhiễm trùng sẽ kết thúc khi quá trình làm sạch và phục hồi hoàn tất.
Tuy nhiên, ở người bị thiếu hụt vitamin D nghiêm trọng, tình trạng viêm có thể leo thang đến mức có thể dẫn đến tử vong. Vitamin D thường ngăn chặn phản ứng miễn dịch "thích nghi" phản ứng quá mức và giảm viêm. Nói cách khác, nó kiểm soát hệ thống miễn dịch và ức chế nó nếu cần thiết.
Trẻ nhỏ và người già không tiếp xúc đủ với ánh nắng mặt trời hoặc sử dụng kem chống nắng để ngăn chặn tia cực tím từ mặt trời tạo ra vitamin D thường dễ bị hệ thống miễn dịch phản ứng quá mức.
Những người trên đây là những người đầu tiên bị cảm lạnh hoặc cúm vào mùa đông. Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao mùa hè không có mùa cúm chưa? Đó là vì hầu hết mọi người dành nhiều thời gian ở ngoài trời hơn trong những tháng hè ấm áp, giúp họ bổ sung lượng vitamin D dự trữ và ít bị ốm hơn.
Một bài báo nghiên cứu được thực hiện tại các trường đại học lớn của Mỹ đã chỉ ra rằng nhiều bệnh thông thường có liên quan đến nồng độ vitamin D thấp. Theo bài báo được công bố trên Tạp chí của Trường Cao đẳng Tim mạch Hoa Kỳ năm 2008 (2008:52:1949-56), nồng độ vitamin D thấp đã được ghi nhận ở những bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim, đột quỵ, suy tim và bệnh tim mạch. Thiếu hụt vitamin D mãn tính có thể gây ra cường cận giáp thứ phát, dẫn đến bệnh nhân bị viêm, kháng insulin, hội chứng chuyển hóa và bệnh tiểu đường.
Hơn nữa, tại Hoa Kỳ, tỷ lệ ung thư và các trường hợp mắc bệnh đa xơ cứng phổ biến hơn ở vùng Đông Bắc, nơi người dân có xu hướng thiếu hụt vitamin D nhiều hơn so với miền Nam hoặc Tây Nam, nơi ấm hơn và có nhiều nắng hơn trong những tháng mùa đông.
Ngoài ra, người béo phì, người hút thuốc, người dùng thuốc (ví dụ: thuốc chống co giật, glucocorticoid, thuốc kháng vi-rút), cũng như người sống trong viện dưỡng lão, có nhiều khả năng bị thiếu vitamin D. Những người da ngăm đen nhưng sống ở các quốc gia hoặc tiểu bang ít nắng, hoặc không dành nhiều thời gian dưới ánh nắng mặt trời, thường là những người bị thiếu vitamin D nhiều nhất. Do đó, họ thường có nguy cơ nhiễm trùng, ung thư, bệnh tim và tiểu đường cao hơn.
Một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Virus học năm 2008 và được xác nhận bởi một nghiên cứu khác vào năm 2009 liên quan đến 19.000 người Mỹ đã phát hiện ra rằng những người có nồng độ vitamin D trong máu thấp nhất thường bị cảm lạnh hoặc cúm nhiều hơn đáng kể.
Kết luận, tác giả chính của nghiên cứu, Tiến sĩ Adit Ginde, tuyên bố: "Những phát hiện trong nghiên cứu của chúng tôi ủng hộ vai trò quan trọng của vitamin D trong việc phòng ngừa các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp thông thường như cảm lạnh và cúm. Những người mắc các bệnh phổi thông thường, chẳng hạn như hen suyễn hoặc khí phế thũng, có thể đặc biệt dễ bị nhiễm trùng đường hô hấp do thiếu vitamin D."
Tại sao chúng ta cần phải tiêm vắc-xin có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng cho đủ loại bệnh trong khi chúng ta có thể tránh được bệnh tật bằng cách phơi da dưới ánh nắng mặt trời? (Xem thêm cuốn sách của tôi, Heal Yourself with Sun-light - Chữa lành bản thân bằng ánh sáng mặt trời).
Và chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về vai trò của Vitamin D sau.
3.7 Có gì trong lọ đó?
Tóm lại, thứ hỗn hợp cực độc, cực mạnh được đưa vào cơ thể người này là gì? Được tiêm, uống hoặc thậm chí hít như trong trường hợp một số loại vắc-xin cúm, hỗn hợp này cố gắng tạo ra khả năng miễn dịch bằng cách đưa các mảnh nhỏ của tác nhân gây bệnh hoặc mầm bệnh vào cơ thể.
Đây là những vật thể lạ như vi khuẩn, vi-rút hoặc vật liệu di truyền từ các mầm bệnh này, thường được nuôi dưỡng và cấy ghép trong cơ thể động vật bị nhiễm bệnh để tạo ra phản ứng miễn dịch.
Ngay khi cơ thể con người phát hiện sự hiện diện của một vật lạ (vật không có 'dấu hiệu tự đánh dấu') hoặc một kháng nguyên, cơ thể sẽ sản sinh ra kháng thể để trung hòa các độc tố, tế bào lạ và vật liệu gây hại này, đồng thời chữa lành mọi vết thương mà chúng có thể gây ra.
Kháng thể là các phân tử protein liên kết với kháng nguyên và có thể đặc hiệu với bệnh. Theo các lý thuyết được giảng dạy tại các trường y, ngay khi kháng nguyên và kháng thể kết hợp với nhau, hệ thống miễn dịch của cơ thể sẽ được kích hoạt để chống lại kẻ xâm nhập.
Người ta cho rằng khi máu của một cá nhân chứa kháng thể (do vắc-xin tạo ra hoặc do cơ thể tự nhiên tạo ra từ lần mắc bệnh trước đó) đối với một tác nhân gây bệnh cụ thể, thì cơ thể con người sẽ được bảo vệ khỏi căn bệnh do tác nhân gây bệnh đó gây ra suốt đời.
Tuy nhiên, có một sự khác biệt quan trọng giữa miễn dịch có được một cách tự nhiên (từ một lần bị nhiễm trước đó) và miễn dịch được áp đặt lên một hệ thống miễn dịch không hề hay biết. Các con đường tự nhiên để mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể là niêm mạc mũi, miệng, môi, mí mắt, tai, vùng sinh dục và hậu môn. Tiêm trực tiếp mầm bệnh vào máu là một con đường không tự nhiên và là một hành vi bạo lực, phá vỡ và can thiệp vào chính cơ chế tự bảo vệ, tự vệ của cơ thể.
Các màng nhầy này tạo thành tuyến phòng thủ đầu tiên của cơ thể để bẫy và tiêu hóa các vi sinh vật (sử dụng enzyme) không có lợi cho vật chủ miễn là các tế bào và cơ quan vẫn được nuôi dưỡng tốt và khỏe mạnh.
Xin lưu ý rằng vi khuẩn và vi-rút không gây hại cho cơ thể. Chúng chỉ trở thành tác nhân gây bệnh khi mức độ độc hại của cơ thể dẫn đến tổn thương tế bào đáng kể hoặc sự phân hủy tế bào, và cần phải có nhiễm trùng để phân hủy các mảnh vỡ tế bào và kích thích hệ miễn dịch sửa chữa và chữa lành tổn thương. Niêm mạc là một phần thiết yếu của hệ thống giải độc của cơ thể, đảm bảo điều này không xảy ra.
Việc bỏ qua tuyến phòng thủ đầu tiên này, còn được gọi là "hệ thống miễn dịch IgA", sẽ để lại những lỗ hổng lớn trên "lớp áo giáp" tự bảo vệ của cơ thể. Hệ thống này không thích ứng tốt với các biện pháp tiêm chủng nhân tạo và do đó gây ra nhiều phản ứng ngược. Một trong số đó là bằng cách thực sự gây ra căn bệnh mà vắc-xin được thiết kế để ngăn ngừa.
Việc mắc phải căn bệnh mà bạn đã tiêm vắc-xin, chẳng hạn như quai bị, thực sự có thể là một điều may mắn cho người bệnh và mang lại khả năng miễn dịch thực sự đối với căn bệnh này. Điều này có thể giải thích một số tác dụng phòng ngừa bệnh tật của vắc-xin đã được chứng kiến ở một số ít người đã tiêm chủng. Đáng tiếc là phần lớn những người được tiêm chủng không bị ốm. Nếu có, việc tiêm chủng thực sự có thể có một số giá trị. Tuy nhiên, nếu một tá dược như nhôm hoặc squalene được thêm vào vắc-xin, điều hiện nay thường thấy ở hầu hết các loại vắc-xin, thì nó có thể khiến hệ thống miễn dịch của bạn phản ứng thái quá với vi sinh vật mà bạn đang được tiêm chủng.
Trong những trường hợp như vậy, cơ thể con người trở nên bất lực trước các tác nhân lạ và bị áp đảo bởi các kháng nguyên, dẫn đến phản ứng thái quá của hệ miễn dịch. Điều này thường gây ra các triệu chứng suy nhược (trong số các tác nhân thường được đưa vào cơ thể qua vắc-xin là thimerosal, có liên quan đến tổn thương thần kinh ở não), tác dụng phụ tàn tật (Xem Chương 5 & 6: Hậu quả của vắc-xin và chứng tự kỷ: Merury Assault) và thậm chí là các tình trạng đe dọa tính mạng.
Bất chấp bằng chứng được ghi chép lại cho thấy mối liên hệ giữa tiêm chủng và bệnh tật và thương tích, y học hiện đại vẫn khẳng định vắc-xin là một loại "bảo hiểm y tế". Tuy nhiên, để bạn nắm rõ sự thật, dưới đây là một cái nhìn tổng quan về thành phần của những hóa chất này.
Kháng nguyên: Trọng tâm của mọi loại vắc-xin là vi sinh vật gây bệnh hoặc tác nhân gây bệnh mà mục đích là tạo ra khả năng miễn dịch.
Chất bảo quản: Chất bảo quản được sử dụng để kéo dài thời hạn sử dụng của vắc-xin bằng cách ngăn chặn vi khuẩn và nấm xâm nhập. Tại Hoa Kỳ, FDA cho phép sử dụng ba chất bảo quản: phenol, 2-phenoxyethanol và thimerosal. (Xem Chương 6: Tự kỷ: Tấn công thủy ngân)
Tá dược: Tá dược tăng cường đáp ứng miễn dịch của cơ thể ngay sau khi tiêm vắc-xin. Mặc dù rất nguy hiểm và thậm chí được biết là gây ra các cơn bão cytokine dẫn đến tử vong nhanh chóng, các công ty dược phẩm vẫn tiếp tục sử dụng tá dược làm "chất tăng cường" trong vắc-xin của họ.
Một lý do thuyết phục khác cho việc sử dụng tá dược là những hóa chất này, thông qua việc tăng tốc độ tiêm chủng vắc-xin, cho phép các công ty dược phẩm sử dụng ít kháng nguyên hơn trong mỗi liều, nhờ đó họ có thể sản xuất nhiều liều hơn. Hãy thử tính toán xem: Càng nhiều liều thì lợi nhuận càng lớn.
Muối nhôm là tá dược được các nhà sản xuất thuốc sử dụng rộng rãi nhất. Chúng bao gồm: nhôm phosphat, nhôm hydroxit, nhôm hydroxyphosphat sulfat và kali nhôm sulfat, hay đơn giản là phèn chua.
Cho đến gần đây, muối nhôm là tá dược duy nhất mà các nhà sản xuất vắc-xin tại Hoa Kỳ được phép sử dụng. Tuy nhiên, với việc FDA đang cân nhắc việc cho phép sử dụng squalene làm tá dược, ngày càng có nhiều lo ngại rằng hóa chất này, vốn đã gây ra nhiều tai họa cho các cựu chiến binh Chiến tranh Vùng Vịnh của Hoa Kỳ, có thể được cấp phép để sử dụng rộng rãi ở Hoa Kỳ. (Xem Chương 3: Có Âm mưu không?: Cuộc chiến nội bộ).
Chất phụ gia hoặc chất ổn định: Chất ổn định bảo vệ vắc-xin khỏi bị hư hỏng hoặc mất hiệu lực trong một số điều kiện nhất định như đông khô và nhiệt độ cao. Chúng cũng ngăn ngừa kháng nguyên bám vào thành lọ vắc-xin và ngăn các thành phần của vắc-xin bị tách ra.
Các chất phụ gia thông thường bao gồm các loại đường như sucrose và lactose; các axit amin như glycine, monosodium glutamate; và các protein như gelatin hoặc albumin huyết thanh người.
Mối lo ngại về các chất phụ gia này xoay quanh việc sử dụng gelatin, albumin huyết thanh người và các thành phần có nguồn gốc từ bò, đặc biệt là bò. Trong khi gelatin bị nghi ngờ gây ra phản ứng quá mẫn, albumin huyết thanh người (có nguồn gốc từ thai nhi đã chết) có thể đưa mầm bệnh vào cơ thể.
Tài liệu lấy từ gia súc đã trở thành tâm điểm chú ý khi dịch bệnh não xốp ở bò hay còn gọi là 'bệnh bò điên' bùng phát ở Anh vào những năm 1980. Tôi đã thảo luận chi tiết về tranh cãi này ở cuối chương này.
Tác nhân tồn dư: Các tác nhân tồn dư được sử dụng trong quá trình sản xuất để bất hoạt mầm bệnh sống và nuôi cấy virus. Cuối cùng, chúng được loại bỏ khỏi vắc-xin, hoặc ít nhất đó là những gì các nhà sản xuất vắc-xin tuyên bố.
Các tác nhân còn sót lại bao gồm huyết thanh bò (một tác nhân phổ biến được sử dụng để nuôi cấy vi-rút trong nuôi cấy tế bào); formaldehyde (được sử dụng như một tác nhân bất hoạt); và các loại kháng sinh như neomycin, streptomycin và polymyxin B để ngăn ngừa nhiễm khuẩn.
Sản phẩm động vật: Sản phẩm động vật thường được sử dụng nhiều nhất trong sản xuất vắc-xin vì đây là môi trường nuôi cấy và phát triển vi-rút.
Chúng thực hiện hai chức năng thiết yếu: cung cấp dinh dưỡng cho tác nhân gây bệnh và cung cấp các dòng tế bào giúp tác nhân đó sinh sôi để tạo ra hàng triệu liều vắc-xin sau đó được bán ra thị trường.
Các loài động vật có nội tạng, mô, máu và huyết thanh thường được sử dụng để sản xuất vắc-xin là khỉ, bò, cừu, gà, lợn và đôi khi là chó và thỏ.
Sản phẩm của con người: Tế bào phôi thai người (tế bào lưỡng bội người) phân chia vô hạn định và được sử dụng để tạo ra các dòng tế bào giúp virus nhân lên. Ví dụ, virus rubella được nuôi cấy trong môi trường nuôi cấy mô người vì virus này không có khả năng lây nhiễm cho động vật.
Sau khi nuôi cấy virus, tác nhân gây bệnh được tinh chế bằng cách loại bỏ nó khỏi môi trường nuôi cấy. Tuy nhiên, dấu vết vật chất di truyền từ môi trường nuôi cấy thường vẫn còn trong vắc-xin.
Điều này đặt ra mối nguy hiểm thực sự và luôn hiện hữu. Nếu vật chủ hoặc con người bị nhiễm bệnh, các tác nhân gây bệnh thứ cấp có khả năng lây truyền trong quá trình tiêm chủng.
Đây chính xác là những gì đã xảy ra khi vắc-xin bại liệt, được nuôi cấy trong tế bào thận khỉ, sau đó được phát hiện bị nhiễm Virus tạo túi Simi-an 40 hoặc SV40. (Xem Chương 2: Những sai lầm trong lịch sử).
Sau khi xem xét các loại thành phần chung trong vắc-xin, sau đây là danh sách một số tác nhân độc hại (có tác dụng phụ đã được ghi nhận) được sử dụng trong quá trình sản xuất vắc-xin.
Acetone: Nước tẩy sơn móng tay
Chất bổ trợ dầu: Một chất độc thần kinh liên quan đến bệnh Alzheimer và co giật. Nó cũng có thể gây viêm khớp.
Formaldehyde: Một chất gây ung thư được sử dụng làm chất lỏng ướp xác
Ethylene Glycol: Chất chống đông được sử dụng rộng rãi trong động cơ ô tô
Triton X100: Một chất tẩy rửa
Glycerin: Có thể gây tổn thương các cơ quan nội tạng như phổi, gan và thận và đường tiêu hóa
Monosodium glutamate (MSG): Theo FDA, MSG Symp-tom Complex hay tác dụng phụ của MSG có thể gây ra tê liệt, cảm giác nóng rát, ngứa ran, áp lực hoặc căng tức mặt, đau ngực, đau đầu, buồn nôn, nhịp tim nhanh, buồn ngủ, yếu và khó thở đối với bệnh nhân hen suyễn. Cụ thể hơn, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng MSG có thể gây ra chứng loạn nhịp tim, rung nhĩ, nhịp tim nhanh, nhịp tim nhanh, hồi hộp, nhịp tim chậm, đau thắt ngực, huyết áp tăng hoặc giảm đột ngột, sưng tấy, tiêu chảy, buồn nôn/nôn, chuột rút dạ dày, chảy máu trực tràng, đầy hơi, đau nhức giống như cúm, đau khớp, cứng khớp, trầm cảm, thay đổi tâm trạng, phản ứng giận dữ, đau nửa đầu, chóng mặt, choáng váng, mất thăng bằng, mất phương hướng, lú lẫn, lo lắng, hoảng loạn, tăng động, các vấn đề về hành vi ở trẻ em, rối loạn thiếu tập trung, lờ đờ, buồn ngủ, mất ngủ, tê liệt hoặc liệt, co giật, đau thần kinh tọa, nói lắp, ớn lạnh và run rẩy, rùng mình, mờ mắt, khó tập trung, áp lực quanh mắt, hen suyễn, khó thở, đau ngực, tức ngực, sổ mũi, hắt hơi, đau bàng quang thường xuyên, sưng tuyến tiền liệt, sưng âm đạo, ra máu âm đạo, đi tiểu thường xuyên, tiểu đêm, nổi mề đay (có thể là cả bên trong và bên ngoài), phát ban, tổn thương miệng, căng tức tạm thời hoặc liệt một phần, tê hoặc ngứa ran da, đỏ bừng, khô miệng nghiêm trọng, sưng mặt, sưng lưỡi, bọng mắt
Phenol hoặc Axit Carbolic: Một chất độc gây chết người được sử dụng trong các sản phẩm gia dụng và công nghiệp như một chất khử trùng cũng như một chất nhuộm
Thimerosal (dẫn xuất của thủy ngân): Một kim loại nặng độc hại được sử dụng làm chất bảo quản. Có liên quan chặt chẽ đến chứng tự kỷ, các bệnh tự miễn và các rối loạn phát triển thần kinh khác.
Nhôm: Một nguyên tố kim loại, ngoài việc gây tổn thương não ở trẻ em, còn có thể khiến người lớn dễ mắc các vấn đề về thần kinh như Bệnh Alzheimer và chứng mất trí nhớ
Polysorbate 80 (Tween80M): Một chất nhũ hóa có thể gây ra các phản ứng dị ứng nghiêm trọng, bao gồm cả phản vệ. Ngoài ra, theo một nghiên cứu của Slovenia trên chuột được công bố trên tạp chí Food and Chemical Toxi-cology năm 1993, Tween80 có thể dẫn đến vô sinh. Tween80 đẩy nhanh quá trình trưởng thành ở chuột, kéo dài chu kỳ động dục, làm giảm trọng lượng tử cung và buồng trứng, đồng thời gây tổn thương niêm mạc tử cung - một dấu hiệu của sự kích thích estrogen mãn tính.
Tất cả những điều này khiến tôi tự hỏi tại sao hàng triệu người lại bắt đầu mắc phải những căn bệnh được liệt kê là tác dụng phụ của các loại độc tố này sau khi tiêm chủng hàng loạt được đưa vào xã hội hiện đại. Hầu hết những căn bệnh này gần như chưa từng được biết đến trước khi cơn sốt vắc-xin bắt đầu.
>>Tiếp: 3.8 'Sai lầm' về vắc-xin
3.5 Vắc-xin ức chế miễn dịch
>>Trước: 3.4 Kháng thể do tổn thương bởi vắc-xin
Một nghiên cứu cẩn thận về các kiểu bệnh được quan sát thấy ở 82 trẻ sơ sinh khỏe mạnh trước và sau khi tiêm chủng đã được công bố trên Clinical Pediatrics (1988).
Trong nghiên cứu này được thực hiện tại Israel, các nhà nghiên cứu đã so sánh tỷ lệ mắc các bệnh cấp tính trong vòng 30 ngày sau khi tiêm vắc-xin DTaP (phòng bạch hầu, uốn ván, ho gà) với tỷ lệ mắc bệnh ở cùng những trẻ này trong vòng 30 ngày trước khi tiêm vắc-xin. Giai đoạn ba ngày ngay sau khi tiêm vắc-xin đã bị loại trừ vì trẻ thường bị sốt do phản ứng trực tiếp với độc tố của vắc-xin. Theo các nhà nghiên cứu, các em bé bị sốt, tiêu chảy và ho tăng đáng kể trong tháng sau khi tiêm vắc-xin DTaP so với tình trạng sức khỏe trước khi tiêm.
Tương đối dễ để quan sát xem vắc-xin có tác động tiêu cực nào đến tế bào bạch cầu hay không, đây là tế bào tạo nên hệ thống miễn dịch chính của cơ thể.
Theo đó, một nghiên cứu gần đây hơn, được bình duyệt bởi các chuyên gia, được công bố trên Tạp chí Y học New England vào tháng 5 năm 1996, đã tiết lộ rằng vắc-xin uốn ván làm giảm tế bào T và do đó vô hiệu hóa hệ thống miễn dịch ở bệnh nhân HIV. Tất nhiên, điều này có nghĩa là vắc-xin có thể gây tổn hại đến hệ thống miễn dịch của bất kỳ ai, không chỉ ở những người đã bị suy yếu hệ thống miễn dịch. Không ai có thể đoán được hệ thống miễn dịch suy yếu có thể dẫn đến hậu quả gì.
Năm 1992, Hội Nâng cao Nhận thức về Tiêm chủng New Zealand (IAS) đã tiến hành một nghiên cứu khảo sát để tìm hiểu xem có bao nhiêu trẻ em của các thành viên đang gặp phải các vấn đề sức khỏe. Trong số các bệnh lý khác do suy giảm hệ miễn dịch, trẻ em được tiêm chủng so với trẻ em chưa tiêm chủng gặp phải:
· hen suyễn nhiều hơn năm lần
· dị ứng gần gấp ba lần
· nhiễm trùng tai nhiều hơn ba lần
· ngưng thở và tử vong trong nôi cao gấp bốn lần
· gần gấp bốn lần số đợt viêm amidan tái phát
· tăng động gấp mười lần
Tôi hoàn toàn có thể xác nhận những phát hiện này. Trong suốt 37 năm hoạt động trong lĩnh vực sức khỏe tự nhiên, tôi hiếm khi thấy trẻ em chưa tiêm chủng mắc chứng tự kỷ, tăng động, hoặc bị hen suyễn, nhiễm trùng tai, dị ứng và viêm amidan. Mặt khác, tôi đã chứng kiến những trường hợp này ở trẻ em đã tiêm chủng với tỷ lệ cao đáng báo động.
Một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nhi khoa số tháng 3 năm 1998 (trang 383-387) cho thấy bệnh não cấp tính, sau đó là tổn thương não vĩnh viễn hoặc tử vong, có liên quan đến vắc-xin sởi. Tổng cộng 48 trẻ em, từ 10 đến 49 tháng tuổi, đáp ứng các tiêu chí lựa chọn sau khi tiêm vắc-xin sởi, đơn lẻ hoặc kết hợp. Tám trẻ đã tử vong, và số còn lại bị thoái hóa và chậm phát triển trí tuệ, co giật mạn tính, khiếm khuyết vận động và cảm giác, và rối loạn vận động.
Vào tháng 9 năm 2010, CNN đưa tin cặp song sinh chín tháng tuổi ở Ghaziabad, Ấn Độ đã tử vong chỉ vài phút sau khi tiêm vắc-xin sởi. Avika và Anika Sharma đã được bác sĩ Satyaveer Singh tiêm vắc-xin tại một viện dưỡng lão tư nhân. Chỉ trong vòng 15 phút, cả hai bé gái đều tử vong. Chủ tịch Hiệp hội Y khoa Ấn Độ tại địa phương, bác sĩ Santosh Aggrawal, người đã đến thăm bệnh viện sau vụ việc, xác nhận rằng sức khỏe của cặp song sinh đã xấu đi sau khi được tiêm vắc-xin. Ông nói: "Bác sĩ đã có nguồn vắc-xin mới. Tuy nhiên, vẫn có thể có vấn đề gì đó với lô vắc-xin này. Những ca tử vong tương tự đã được báo cáo ở Kanpur và Lucknow", ông nói thêm. Khi được hỏi về bình luận, các nhà điều tra cho biết: "Đây là một trường hợp phản ứng phụ sau tiêm chủng... Đây không phải là hiện tượng mới...".
Một vấn đề với việc xác định số lượng thương tích do vắc-xin hoặc số ca tử vong do vắc-xin gây ra là chỉ có một phần nhỏ các phản ứng đã được công bố. Các nghiên cứu ước tính rằng chỉ có từ 1 đến 10% tác dụng phụ được báo cáo. Các bác sĩ và bệnh viện rất ngần ngại đổ lỗi cho vắc-xin về sự khởi phát bệnh đột ngột hoặc tử vong. Họ vẫn coi tiêm chủng là thành tựu y học vĩ đại nhất mọi thời đại. Hơn nữa, việc thừa nhận rằng phương pháp điều trị y tế phải chịu trách nhiệm gây tổn thương não hoặc tử vong không phải là một chiến dịch PR tốt. Việc đổ lỗi cho sự xuất hiện ngẫu nhiên của bệnh tật thay vì vắc-xin về những tác dụng phụ này tự động đồng nghĩa với việc miễn trừ trách nhiệm pháp lý, bao gồm cả tất cả các hành vi cẩu thả.
Theo đó, hầu hết mọi người đều không hề biết vấn đề chấn thương do vắc-xin đã trở nên nghiêm trọng đến mức nào. Các bậc cha mẹ vô tình đưa con mình, vốn hoàn toàn khỏe mạnh, đến bác sĩ, và chỉ vài phút hoặc vài ngày sau, họ phát hiện con mình bị tàn tật hoặc tử vong. Đối với ngành y, đó là thiệt hại kèm theo hoặc lợi ích kèm theo (mất hoặc có thêm một bệnh nhân tiềm năng). Đối với cha mẹ, đó là một chấn thương không thể tưởng tượng nổi.
Nếu vắc-xin sởi có thể gây ra những tổn thương rõ ràng và tử vong ngay lập tức cho trẻ em, tôi tự hỏi liệu vắc-xin này còn có thể gây ra những bệnh lý khó phát hiện và khó nhận biết nào khác dẫn đến ung thư, tiểu đường, bệnh tim, suy gan, suy thận, v.v. nhiều năm sau đó không?
Thay vì tiêm cho trẻ những loại vắc-xin rõ ràng là không an toàn và chưa được kiểm nghiệm, gây nguy hiểm cho sức khỏe và tính mạng của trẻ, tốt hơn hết chúng ta nên để trẻ vượt qua một vài bệnh nhẹ và vô hại ở trẻ em. Việc không làm gì nhiều và để tự nhiên diễn ra có thể thực sự tăng cường khả năng miễn dịch tự nhiên của trẻ và cải thiện sức khỏe lâu dài.
Vi khuẩn sản sinh ra độc tố (kháng nguyên) kích hoạt phản ứng viêm để giúp chữa lành tình trạng bệnh tiềm ẩn mà cơ thể không thể tự chữa lành nếu không có sự hỗ trợ của chúng. Các tế bào plasma sản xuất kháng thể liên kết với các kháng nguyên này khi cần thiết, giúp thúc đẩy quá trình chữa lành. Tế bào B, tế bào lympho, đại thực bào và kháng thể đều tham gia chặt chẽ vào quá trình chữa lành này, bao gồm việc trung hòa và loại bỏ độc tố. Hệ miễn dịch không phải là một cỗ máy chiến tranh được trang bị vũ khí để nhắm mục tiêu và tiêu diệt kẻ thù xâm lược; ngược lại, nó là một hệ thống chữa lành cực kỳ tinh vi với mục đích duy nhất là đưa cơ thể trở lại trạng thái cân bằng và hài hòa (trạng thái cân bằng nội môi).
Điều quan trọng cần lưu ý ở đây là không phải tất cả vắc-xin đều vô dụng hoặc có hại. Ví dụ, "vắc-xin vi lượng đồng căn" được tạo thành từ các tác nhân gây bệnh hoặc từ các sản phẩm của bệnh, chẳng hạn như mủ, đã được chứng minh là có thể mang lại sự phục hồi đáng kể.
Trên thực tế, nhiều người bị rắn độc cắn đã được cứu sống nhờ tiêm nọc độc lấy từ loài rắn đó. Theo Wikipedia, việc đạt được khả năng miễn dịch ở người chống lại nọc rắn là một trong những hình thức tiêm chủng cổ xưa nhất được biết đến cho đến nay (khoảng năm 60 SCN, thời bộ tộc Psylli). Ngay cả ngày nay, người dân các bộ tộc thổ dân vẫn cố tình cắt da và để vết thương tiếp xúc với đất để tạo ra sức đề kháng tự nhiên mạnh mẽ chống lại các độc tố có trong môi trường của họ. Động vật hoang dã cũng thường áp dụng các phương pháp tự miễn dịch tương tự.
Nọc rắn là nước bọt biến đổi cao, bao gồm protein, en-zyme, các chất có tác dụng gây độc tế bào, độc tố thần kinh và chất đông máu. Khi tự tiêm, nọc rắn đuôi chuông phương Đông sẽ sản sinh kháng thể trung hòa IgG cao đối với một số loài rắn đuôi chuông. Việc tiếp xúc với nọc rắn sẽ tạo ra khả năng miễn dịch chống lại các vết cắn của rắn đuôi chuông trong tương lai. Khả năng miễn dịch này được tạo ra bởi cơ thể sản xuất kháng huyết thanh để trung hòa tác dụng độc hại của huyết thanh rắn. Nguyên tắc này áp dụng cho mọi loại độc tố mà cơ thể hấp thụ. Nói một cách đơn giản, cơ thể chúng ta sản xuất các protein máu đặc hiệu (kháng thể) để liên kết và trung hòa độc tố, đồng thời chữa lành vết thương do độc tố gây ra. Khả năng miễn dịch tế bào đạt được (khả năng tái tạo huyết thanh giải độc tương tự khi bị rắn cắn lần nữa) bảo vệ cơ thể khỏi việc tiếp xúc với cùng loại độc tố trong tương lai, trừ khi mức độ tiếp xúc vượt xa khả năng giải độc và bù trừ của cơ thể.
Điều này đặc biệt xảy ra khi nhiều loại vắc-xin được tiêm trong một khoảng thời gian ngắn, tức là vài tháng hoặc vài năm. Như nghiên cứu đã đề cập trước đó đã chỉ ra, trẻ em ở Iceland hoặc Na Uy chỉ được tiêm tổng cộng 11 loại vắc-xin có nguy cơ mắc chứng tự kỷ hoặc tử vong thấp hơn nhiều so với trẻ em ở Hoa Kỳ. Các quan chức y tế công cộng liên bang khuyến nghị trẻ em nên được tiêm tổng cộng 69 liều, mỗi liều gồm 16 loại vắc-xin, từ ngày sinh đến 18 tuổi. Chúng ta đã thấy rằng trẻ em có tỷ lệ mắc bệnh hen suyễn, dị ứng, nhiễm trùng tai, viêm amidan và các bệnh nghiêm trọng khác cao hơn nhiều sau khi được tiêm chủng.
Một đứa trẻ chào đời mà hệ miễn dịch gần như không có chức năng, lại phải tiêm hàng chục mũi vắc-xin chứa đầy hợp chất độc hại, sau đó sẽ phải chịu những tổn thương ngắn hạn cũng như dài hạn, một số trong đó sẽ biểu hiện thành chứng tự kỷ, ung thư, tiểu đường, bệnh tim, đa xơ cứng, bệnh Alzheimer, v.v. nhiều năm sau đó. Có lẽ, đây là lý do tại sao dân số Hoa Kỳ lại có tuổi thọ thấp như vậy (#49) khi so sánh với các quốc gia như Iceland, Thụy Điển và Thụy Sĩ, nơi ít tiêm chủng hơn và các bậc cha mẹ có hiểu biết hơn từ chối tiêm chủng vì bằng chứng ngày càng gia tăng về các tổn thương do vắc-xin lan rộng trong dân số.
Phải chăng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi Hoa Kỳ đứng đầu về chi phí chăm sóc sức khỏe và chi tiêu cho y tế gấp đôi các quốc gia phát triển khác? Tại sao người Mỹ lại mắc bệnh nhiều hơn người dân các nước khác, mặc dù họ có hệ thống chăm sóc sức khỏe tiên tiến nhất thế giới? Hay là vì lý do đó?
Barbara Loe Fisher, người sáng lập Trung tâm Thông tin Vắc-xin Quốc gia, gần đây đã mô tả tình thế tiến thoái lưỡng nan này chỉ trong một câu: "Sự thật là, không ai biết có bao nhiêu nạn nhân của vắc-xin ở Mỹ, có bao nhiêu trong số 1/6 trẻ em khuyết tật học tập; hoặc 1/9 trẻ em mắc bệnh hen suyễn; hoặc 1/100 trẻ mắc chứng tự kỷ; hoặc 1/450 trẻ mắc bệnh tiểu đường, có thể truy nguyên tình trạng viêm mãn tính, bệnh tật và khuyết tật của họ là do phản ứng với vắc-xin mà các quan chức y tế công cộng và bác sĩ đã bác bỏ trong thế kỷ qua chỉ là "sự trùng hợp ngẫu nhiên".
Việc cấy vi khuẩn sống hoặc chết vào máu để đạt được khả năng miễn dịch chống lại các bệnh nhiễm trùng trong tương lai hoàn toàn khác với việc đạt được khả năng miễn dịch bằng cách trải qua toàn bộ quá trình của một căn bệnh. Không có con đường tắt thực sự nào dẫn đến khả năng miễn dịch.
Đến đây, tôi muốn nhấn mạnh rằng sự hiện diện của các kháng thể đặc hiệu không thể bảo vệ cơ thể con người khỏi bệnh tật; chỉ có hệ thống miễn dịch tế bào mới có thể làm được điều đó. Và xin nhắc lại, hệ thống này thực hiện điều này không phải thông qua sức mạnh chiến đấu mà thông qua sức mạnh chữa lành. Mặc dù khoa học đã biết cách truyền kháng thể thông qua tiêm chủng (bằng cách gây tổn thương cho cơ thể), nhưng nó đã lầm tưởng rằng mình đang truyền sức mạnh miễn dịch, thứ chỉ có thể được phát triển thông qua trải nghiệm một căn bệnh cụ thể. Đánh lừa hệ thống miễn dịch của cơ thể là không hiệu quả; để tự nhiên diễn ra mới hiệu quả.
Điểm mấu chốt là chỉ riêng kháng thể chống lại tác nhân gây bệnh là không đủ để tạo ra khả năng miễn dịch. Ai cũng biết rằng một số bệnh như herpes có thể tái phát bất chấp nồng độ kháng thể cao.
Cho dù có kháng thể hay không, khả năng miễn dịch đối với các bệnh truyền nhiễm này chỉ có thể được tạo ra bởi hệ thống miễn dịch tế bào của chúng ta. Giả thuyết cho rằng việc tiếp xúc cơ thể với vi trùng sẽ kích hoạt phản ứng miễn dịch tương tự như phản ứng được tạo ra trong quá trình mắc bệnh thực sự là có sai sót nghiêm trọng. (Xem Chương 3: Có Âm mưu không?: Cuộc chiến bên trong)
Do đó, khi đặt câu hỏi về tiền đề của lý thuyết vắc-xin, câu hỏi chúng ta cần đặt ra là: Ai mới thực sự là người cứu sống? Vắc-xin? Hay hệ thống miễn dịch khỏe mạnh?
Tuy nhiên, những người ủng hộ vắc-xin gần như hoàn toàn bỏ qua vai trò của hệ miễn dịch, thay vào đó chọn cách hạ thấp nó xuống thành một cơ chế sản sinh kháng thể, một đội quân robot chiến đấu ngay khi có "sự xâm nhập của vi trùng". Vậy nên, chính vắc-xin mới tạo ra khả năng miễn dịch! Hoặc ít nhất là họ muốn chúng ta tin như vậy, "họ" là những kẻ kiếm lợi từ bệnh tật của người khác.
Họ muốn đánh lạc hướng chúng ta khỏi việc khám phá và sử dụng tất cả các yếu tố khác có vai trò tạo nên hệ thống miễn dịch khỏe mạnh, quan trọng, bao gồm vitamin D được sản xuất khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, tập thể dục, dinh dưỡng tốt, ngủ đủ giấc, nước sạch và không khí trong lành, lựa chọn lối sống thư giãn hơn, ít căng thẳng hơn, v.v.
Việc sản sinh kháng thể với một chất, thực phẩm hoặc vắc-xin cụ thể không quyết định liệu một căn bệnh như nhiễm trùng hoặc dị ứng có thực sự xảy ra hay không. Ví dụ, những người mắc chứng rối loạn đa nhân cách có thể bị dị ứng nghiêm trọng với nước cam (chất gây dị ứng) khi đang biểu hiện một tính cách, nhưng khi họ đột nhiên chuyển sang một tính cách khác, chính những kháng thể này không còn gây ra phản ứng dị ứng nữa. Họ cũng có thể bị tiểu đường ở một tính cách, và chỉ vài phút sau, họ đã khỏi bệnh. Phụ nữ thậm chí có thể có chu kỳ kinh nguyệt khác nhau khi đang trải qua những tính cách khác nhau của họ.
Một ví dụ khác. Một người bình thường bị dị ứng với lông mèo và tiếp xúc với protein trong lông mèo sẽ kích hoạt sản xuất kháng thể và phản ứng viêm sau đó. Tuy nhiên, vì điều này thường xảy ra, người này có thể chỉ dị ứng với mèo trắng hoặc mèo cam, chứ không phải mèo đen, hoặc ngược lại. Thông thường,
Chấn thương tâm lý trước đó liên quan đến mèo trắng, chẳng hạn như cái chết của nó, có thể đã dẫn đến việc sản sinh kháng thể. Bất cứ khi nào một người chạm vào một con mèo trắng, cơ thể sẽ tạo ra phản ứng kháng thể dựa trên ký ức về chấn thương tâm lý trước đó. Và vì mèo đen không phải là một phần của ký ức này, nên việc chạm vào mèo đen sẽ không gây ra phản ứng dị ứng.
Tương tự như vậy, điều tương tự có thể xảy ra với một người bị dị ứng với gluten mỗi khi ăn bánh mì, nhưng họ lại không gặp vấn đề gì khi ăn mì ống cũng chứa gluten.
Nói cách khác, không có cách nào để khẳng định chắc chắn liệu sự hiện diện của kháng thể do vắc-xin chống lại virus quai bị hoặc sởi tạo ra có mang lại bất kỳ sự bảo vệ nào hay không. Toàn bộ lý thuyết về vắc-xin dựa trên ý tưởng rằng sự hiện diện của các kháng thể đặc hiệu như vậy trong máu mang lại khả năng miễn dịch chống lại các bệnh này. Ví dụ, dữ liệu nghiên cứu được thu thập trong đợt bùng phát quai bị gần đây nhất cho thấy chắc chắn rằng việc có kháng thể chống lại các loại virus này không mang lại lợi ích bảo vệ nào nếu không có miễn dịch tế bào tiềm ẩn được tạo ra khi mắc bệnh. Không chỉ vậy. Chúng ta biết rằng 770 trong số 1.000 người mắc bệnh quai bị đã được tiêm phòng đầy đủ và 230 người thì không. Việc không có bất kỳ kháng thể nào do vắc-xin tạo ra chống lại virus quai bị rõ ràng mang lại sự đảm bảo tốt hơn nhiều để duy trì tình trạng không mắc bệnh so với việc có chúng. Nói một cách thẳng thắn, những người chưa tiêm vắc-xin rõ ràng được bảo vệ tốt hơn những người đã tiêm vắc-xin. Điểm mấu chốt là vắc-xin làm tăng nguy cơ nhiễm virus chứ không phải làm giảm nguy cơ.
>>Tiếp: 3.6 Lây nhiễm cho người tình nguyện
3.3 Ai là người cứu mạng?
>>Trước: 3.2 Sự thật về Virus
Trong trường hợp hệ thống miễn dịch đã phục hồi thành công các chức năng của cơ thể, cơ thể sẽ khỏe mạnh và cường tráng hơn trước. Điều này mang lại cái mà nhiều người gọi là miễn dịch thu được nhưng không nhất thiết bao gồm khả năng miễn dịch chống lại các loại vi khuẩn cụ thể. Nó cũng có thể có nghĩa là cơ thể giờ đây khỏe mạnh và không còn độc tố, và do đó không cần vi khuẩn để kích hoạt phản ứng làm sạch và chữa lành của cơ thể nữa. Nhiều người cho rằng cơ thể đã có được khả năng miễn dịch với những vi khuẩn đã khởi xướng nhiệm vụ giải cứu, nhưng thực tế, chính trạng thái sức khỏe và sinh lực được cải thiện mới giúp cơ thể không bị bệnh trở lại.
Khoa học vắc-xin đã theo đuổi câu hỏi làm thế nào chúng ta có thể tạo ra khả năng miễn dịch suốt đời đối với bệnh truyền nhiễm/viêm nhiễm mà không cần phải trải qua bệnh trước.
Giả định được đưa ra là bằng cách kích thích sản sinh kháng thể để chống lại một số vi trùng gây bệnh, bạn sẽ tự động được bảo vệ khỏi chúng. Tuy nhiên, y học hiện đại vẫn chưa thể chứng minh liệu sự bảo vệ khỏi vi trùng là do sự hiện diện của kháng thể hay do phản ứng miễn dịch tự nhiên, chủ yếu nhằm mục đích thanh lọc và chữa lành các mô bị tắc nghẽn và tổn thương. Trên thực tế, khả năng thứ hai đúng hơn nhiều, trừ khi chất độc trong vắc-xin đã làm tổn thương hoặc thậm chí làm tê liệt hệ thống miễn dịch. (Chúng ta sẽ tìm hiểu vấn đề miễn dịch trong Chương 3: Có Âm mưu không?: Cuộc chiến Nội tâm)
Thuyết vi trùng học hiện tại cho rằng chỉ khi số lượng vi trùng hoặc tốc độ sinh trưởng của chúng vượt quá một ngưỡng nhất định thì hệ thống miễn dịch mới nhận diện được chúng, dẫn đến sự hình thành các kháng thể đặc hiệu với vi khuẩn cụ thể đó. Hay có thể có một lời giải thích khác về lý do tại sao kháng thể được sản sinh?
Sự hiện diện của vi khuẩn lớn cho thấy mô tế bào đã bị tổn thương hoặc yếu đi do sự tích tụ chất thải axit hoặc một loại chấn thương khác. Ở mức độ nhiễm trùng đó, mọi thứ bắt đầu trở nên nghiêm trọng.
Kiểm soát và một bộ tộc vi khuẩn sinh sôi nảy nở dữ dội, kích thích toàn bộ sức mạnh chữa lành của hệ miễn dịch. Đây là điều mà các bác sĩ gọi là 'phản ứng viêm cấp tính'.
Các triệu chứng thường bao gồm sốt, tuyến thượng thận tiết ra hormone căng thẳng, tăng lưu lượng máu, bạch huyết và chất nhầy, và dòng bạch cầu (lymphocyte) đổ về vùng bị viêm (vết thương). Người bệnh cảm thấy khó chịu và có thể bị đau, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, yếu và ớn lạnh.
Việc đổ mồ hôi và đẩy lùi bệnh tật là phản ứng tự nhiên của cơ thể, phản ánh hệ miễn dịch khỏe mạnh. Nói cách khác, bệnh tật thực sự cho thấy cơ thể có khả năng chống chọi thành công với một tình trạng bệnh lý. Điều này đòi hỏi phải chấp nhận và hỗ trợ bệnh tật, chứ không phải kìm nén và làm trầm trọng thêm. Một người thực sự ốm yếu sẽ không còn khả năng tạo ra những phản ứng chữa lành như vậy nữa.
Một khi chúng ta đã vượt qua thành công thử thách của một căn bệnh cụ thể, khả năng chúng ta mắc lại căn bệnh đó sẽ thấp hơn. Bằng cách nào đó, căn bệnh và phản ứng của chúng ta với nó đã khiến chúng ta miễn nhiễm với sự tái phát của nó.
Rất khó có thể tin rằng tiêm chủng có thể làm được điều tương tự bằng cách buộc cơ thể tạo ra kháng thể chống lại một số vi trùng có khả năng gây nhiễm trùng, do đó bảo vệ cá nhân khỏi bệnh truyền nhiễm trong tương lai.
Ngược lại, người ta đã chứng minh hết lần này đến lần khác rằng mặc dù đã tiêm vắc-xin phòng một căn bệnh cụ thể, người được tiêm vắc-xin vẫn có thể mắc chính căn bệnh mà họ được cho là đã được bảo vệ. Thực tế đã được chứng minh rằng sự hiện diện của kháng thể đối với một tác nhân gây bệnh cụ thể không bảo vệ một người khỏi nhiễm trùng lẽ ra phải làm dấy lên những nghi ngờ nghiêm trọng trong giới chuyên môn y tế cũng như người dân rằng lý thuyết vắc-xin là sai lầm nghiêm trọng hoặc không hợp lệ. Chúng ta không thể có cả hai điều đó; kháng thể hoặc bảo vệ chúng ta hoặc không. Tại sao rất nhiều người đã tiêm chủng với lượng kháng thể cao đối với bệnh ho gà và sởi lại mắc những bệnh này, trong khi khoa học vắc-xin khẳng định rằng những kháng thể này có tác dụng bảo vệ họ? Rõ ràng là chúng ta đang nói dối.
Trong Chương 2 và 3 về Những Sai Lầm Lịch Sử và Liệu Có Âm Mưu?, chúng ta sẽ xem xét các trường hợp trong quá khứ mà việc tiêm chủng hàng loạt trong hoặc sau một trận dịch thực sự đã làm tăng tỷ lệ mắc bệnh, bên cạnh việc giết chết một bộ phận lớn dân số. Trong nhiều trường hợp, những ca tử vong này có liên quan trực tiếp đến việc đưa một loại vi-rút cụ thể, cũng như các bộ phận động vật được sử dụng để nuôi cấy vắc-xin, và các hóa chất và kim loại độc hại có trong vắc-xin, vào cơ thể người.
3.4 Kháng thể do tổn thương bởi vắc-xin
Nếu vắc-xin có thể gây tử vong và liệt ở một số người, thì chắc chắn chúng cũng có thể gây thương tích cho nhiều người khác, ngay cả khi những tác dụng phụ có hại này không được nhận biết ngay lập tức. Khi các mô bị tổn thương, cơ thể sẽ bắt đầu quá trình chữa lành vết thương, có thể bao gồm nhiễm trùng, trong đó vi khuẩn gây bệnh giúp phân hủy các tế bào bị tổn thương hoặc chết. Quá trình chữa lành vết thương đòi hỏi cơ thể phải điều động các tế bào miễn dịch, và vâng, cả kháng thể, đến vị trí bị thương.
Nghiên cứu khoa học chứng minh rõ ràng rằng sự tham gia của tế bào lympho trong quá trình lành vết thương là một quá trình năng động và đặc biệt. Quá trình phục hồi vết thương là một chuỗi các sự kiện rất phức tạp và có trật tự cao, bao gồm cầm máu, thâm nhiễm tế bào viêm, tái tạo mô và tái tạo. Nếu muốn lành thương thành công, chúng ta cần để chuỗi sự kiện có trật tự này diễn ra mà không bị can thiệp.
Quá trình lành vết thương diễn ra sau khi mô bị phá hủy, và kháng thể liên kết với các mô bị thương, tạo điều kiện cho đại thực bào, một nhóm tế bào miễn dịch quan trọng khác, nuốt chửng các mô bị tổn thương. Đặc biệt, tế bào B, sản xuất và phân phối kháng thể đến các mô bị tổn thương, tham gia vào quá trình lành vết thương. Trên thực tế, một nghiên cứu gần đây được công bố trên tạp chí Immunology (tháng 11 năm 2009) cho thấy rõ ràng rằng quá trình lành vết thương hoàn toàn là không thể nếu không có sự tham gia tích cực của kháng thể. Ví dụ, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra phức hợp kháng thể, immunoglobulin G1 (IgG1), liên kết với các mô bị tổn thương.
Việc cơ thể sản sinh kháng thể để chữa lành các mô bị tổn thương đặt ra một luận điểm quan trọng đủ sức thuyết phục để thách thức lý thuyết vắc-xin hiện tại. Điều gì sẽ xảy ra nếu kháng thể không được sản sinh để chống lại vi trùng, chẳng hạn như vi-rút hoặc vi khuẩn, mà thay vào đó là để chữa lành các tổn thương do độc tố, chất thải có tính axit, hóa chất trong thực phẩm, thuốc men, chất độc fluoride trong nước uống, v.v.?
Trong trường hợp tổn thương do tiêm vắc-xin, không giống bất kỳ tổn thương nào khác, kháng thể phải được sản sinh để chữa lành tổn thương mô do tiêm trực tiếp vào máu các hóa chất độc hại, chẳng hạn như formaldehyde, chất chống đông, kháng sinh và hỗn hợp chất bảo quản chết người chứa trong chúng. Chỉ cần đâm một cây kim vào cánh tay của ai đó là đủ để kích thích phản ứng viêm của cơ thể, vốn cần thiết để chữa lành vết thương ở cánh tay bị ảnh hưởng. Trong hầu hết các trường hợp, cơ thể có thể tự phục hồi tổn thương. Tuy nhiên, nếu hệ miễn dịch vốn đã yếu, tổn thương do vắc-xin có thể gây tử vong. Một cuộc điều tra năm 2004 đã tiết lộ rằng cứ 500 trẻ em thì có một trẻ sinh ra đã gặp vấn đề về hệ miễn dịch, có thể gây ra các phản ứng nghiêm trọng hoặc đe dọa tính mạng khi được tiêm vắc-xin (Tạp chí Chẩn đoán Phân tử, tháng 5 năm 2004, Tập 6 số 2, Trang 59-83). Có bao nhiêu phụ huynh biết được con mình có hệ miễn dịch yếu? Hầu hết các bậc cha mẹ và bác sĩ đều không nhận thức được nguy cơ này vì thông tin như vậy sẽ gây nguy hiểm nghiêm trọng cho ngành công nghiệp vắc-xin.
Một điều khác mà các bậc phụ huynh không được biết là vi-rút, vi khuẩn, nấm và độc tố hóa học trong một lần tiêm chủng sẽ buộc hệ thống miễn dịch phải phản ứng và tạo ra kháng thể có thể kích hoạt hoặc vô hiệu hóa các công tắc di truyền. Đối với trẻ đang phát triển, điều này có thể dẫn đến những tổn thương không thể phục hồi cho tâm trí và/hoặc cơ thể của trẻ. Tại Hoa Kỳ, một trẻ em được tiêm 36 mũi vắc-xin trước năm tuổi, và cứ 91 trẻ thì có một trẻ mắc chứng tự kỷ. Cứ 1000 trẻ dưới 5 tuổi thì có tám ca tử vong do tiêm chủng. Trong khi đó, ở Iceland, cứ 11 trẻ được tiêm 11 mũi vắc-xin thì chỉ có một trẻ mắc chứng tự kỷ, và cứ 1000 trẻ thì chỉ có bốn trẻ tử vong do tiêm chủng. Năm 1980, một trẻ được tiêm tám mũi vắc-xin và chứng tự kỷ rất hiếm gặp. Ngày nay, Iceland đứng đầu thế giới về tuổi thọ và Hoa Kỳ đứng thứ 34. Bạn có thể tự tính toán và rút ra kết luận của riêng mình. Chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về mối liên hệ giữa vắc-xin và chứng tự kỷ sau.
Tất cả các nhà sản xuất vắc-xin đều tuyên bố rằng việc tăng sản xuất kháng thể trong cơ thể là kết quả của việc tiếp xúc với một tác nhân gây bệnh được cho là (vi trùng gây bệnh). Xét theo cấu trúc của hệ thống chữa lành của cơ thể (hệ thống miễn dịch), và được hỗ trợ bởi các nghiên cứu khoa học đã đề cập ở trên, rất có thể việc sản xuất kháng thể sau khi tiêm chủng là do nhu cầu chữa lành các tổn thương do độc tố trong vắc-xin gây ra.
Câu hỏi đặt ra là tại sao chúng ta lại gọi kháng thể là "chống" một thứ gì đó khi cơ thể sử dụng chúng để tự chữa lành? Tôi đề xuất gọi chúng là "probodies", vì về cơ bản chúng không chống lại thứ gì đó, mà là ủng hộ thứ gì đó. Chúng được tạo ra và tiết ra bởi các tế bào plasma máu, có nguồn gốc từ tế bào B của hệ miễn dịch, để chữa lành tổn thương do sự tích tụ độc tố. Vắc-xin chứa đầy độc tố, mảnh vỡ của các bộ phận động vật và các vật chất lạ khác mà cơ thể phải nhận diện là kháng nguyên.
Kháng nguyên thường là protein hoặc polysaccharide. Chúng thường được "liên kết" tại các vị trí liên kết đặc hiệu của kháng thể. Kháng nguyên có thể bao gồm các thành phần (vỏ, nang, thành tế bào, roi, tua và độc tố) của vi khuẩn, vi-rút và các vi sinh vật khác. Các kháng nguyên không phải vi sinh vật có thể bao gồm phấn hoa, lòng trắng trứng, vảy da động vật, độc tố thực vật, v.v.
Vắc-xin, có thể bao gồm nhiều kháng nguyên khác nhau, được thiết kế để tăng sản xuất kháng thể, từ đó nâng cao cái gọi là "miễn dịch thu được" của cơ thể. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có nghiên cứu đối chứng mù đôi nào chứng minh rằng vắc-xin mang lại mức độ miễn dịch cao hơn so với việc dùng giả dược hoặc không dùng gì cả. Tôi tự hỏi tại sao chưa từng có nghiên cứu nào như vậy. Lập luận chính thức của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) phản đối việc nghiên cứu tác hại của vắc-xin ở người là bất kỳ nghiên cứu nào như vậy (trên người) đều "phi đạo đức".
Và vì vậy tôi hỏi liệu có đạo đức không khi tiêm vắc-xin cho hàng trăm triệu người không nghi ngờ, bao gồm cả trẻ em, mỗi năm chưa bao giờ được chứng minh là có hiệu quả trong việc ngăn ngừa bệnh truyền nhiễm, mà ngược lại còn rõ ràng là gây bệnh cho trẻ? Chẳng phải chúng ta đang cho phép tiêu chuẩn kép và việc hợp pháp hóa thử nghiệm hàng loạt lấn át câu hỏi chính đáng này của những bậc cha mẹ không muốn con mình bị tổn hại: "Bằng chứng nào cho thấy vắc-xin cải thiện hệ miễn dịch và duy trì sức khỏe cho con tôi?" Chúng ta có cần phải tin lời bác sĩ không?
Hãy nghe câu trả lời từ một người phù hợp nhất để có góc nhìn khách quan, từ người trong cuộc. Tiến sĩ Marcia Angell, sau hai thập kỷ làm biên tập viên cho Tạp chí Y học New England, đã tiết lộ: "Đơn giản là không còn có thể tin tưởng phần lớn các nghiên cứu lâm sàng được công bố, hoặc dựa vào phán đoán của các bác sĩ đáng tin cậy hay các hướng dẫn y khoa có thẩm quyền."
Sự thật là vắc-xin ức chế và phá hủy hệ thống miễn dịch một cách có hệ thống. Và có bằng chứng khoa học xác thực để chứng minh điều đó; bằng chứng chưa hề bị thao túng để mang lại thêm quyền lực và nguồn lực cho các nhóm lợi ích.
>>Tiếp: 3.5 Vắc-xin ức chế miễn dịch
3. Chương 1 - Huyền thoại về vắc-xin
>>Trước: 2. Giới thiệu
Đây có lẽ là lời chứng đáng lên án nhưng cũng đầy mỉa mai nhất chống lại vắc-xin, lời thú nhận đến từ chính người đã phát triển ra vắc-xin bại liệt đầu tiên - Vắc-xin bại liệt bất hoạt hay IPV.
Được trích dẫn trong tạp chí y khoa Science năm 1977, Tiến sĩ Jonas Salk đã thừa nhận trước Tiểu ban Thượng viện Hoa Kỳ rằng việc tiêm chủng hàng loạt phòng bệnh bại liệt là nguyên nhân gây ra hầu hết các trường hợp bại liệt trên khắp Hoa Kỳ kể từ năm 1961.
Salk cũng được cho là đã nói rằng "vắc-xin virus sống chống lại bệnh cúm hoặc bại liệt trong mỗi trường hợp có thể gây ra căn bệnh mà nó muốn ngăn ngừa... (và) virus sống chống lại bệnh sởi và quai bị có thể gây ra các tác dụng phụ như viêm não (tổn thương não)."
Có nhiều cách diễn giải lời khai của Salk. Những người ủng hộ Salk chỉ ra rằng nhà khoa học này đang ám chỉ đến dạng vắc-xin bại liệt "sống" hoặc dạng uống do Tiến sĩ Albert Sabin phát triển vào năm 1957 liên quan đến vắc-xin IPV của chính ông mà ông đã phát triển bốn năm trước đó.
Tuy nhiên, ngay cả khi điều đó là sự thật, thì vẫn rất đáng báo động khi nghe một nhà khoa học đã đi vào lịch sử vắc-xin nói rằng bất kỳ loại vắc-xin nào - được tiêm cho phần lớn dân số loài người đều có thể dẫn đến tử vong trên diện rộng, hoặc thậm chí là tử vong.
Chúng ta sẽ quay lại cuộc tranh cãi này trong Chương 2 về Những sai lầm trong lịch sử. Nhưng hiện tại, có thể nói rằng với lời khai của Salk, chính tiền đề của lý thuyết tiêm chủng đã phải chịu một đòn nghiêm trọng.
3.1 Định nghĩa bệnh tật
Trước khi minh họa cách vắc-xin gây ra bệnh tật chứ không phải ngăn ngừa bệnh tật, trước tiên chúng ta hãy định nghĩa "bệnh tật" trong bối cảnh vắc-xin và khả năng miễn dịch.
Từ lâu người ta đã biết rằng trong một số bệnh như bệnh sởi, thủy đậu và sốt ban đỏ, một lần mắc bệnh thường mang lại khả năng miễn dịch suốt đời. Một lần mắc bệnh sởi hoặc sốt ban đỏ lần thứ hai là cực kỳ hiếm.
Tại sao lại như vậy? Đó là vì thiên nhiên đã ban tặng cho cơ thể con người một lớp áo giáp tự nhiên tuyệt vời - một hệ miễn dịch bẩm sinh bảo vệ cơ thể bằng cách kích hoạt sau một đợt mắc một căn bệnh cụ thể.
Cho đến khi khoa học hiện đại khám phá ra bí mật của hệ thống miễn dịch, các khái niệm y học được hình thành vào thế kỷ 19 một phần dựa trên sự hiểu biết về y học của bác sĩ Hy Lạp cổ đại Hippocrates.
Theo Hippocrates, bệnh tật biểu hiện bằng các dấu hiệu và triệu chứng đi từ các cơ quan quan trọng bên trong và tuần hoàn máu ra bề mặt bên ngoài của cơ thể. Các triệu chứng bên ngoài này biểu hiện bằng các triệu chứng có thể nhìn thấy như phát ban hoặc chảy máu, chất nhầy hoặc mủ.
Việc 'vứt bỏ bệnh tật' này được coi là phản ứng chữa lành tự nhiên giúp cơ thể trở lại trạng thái cân bằng hoặc cân bằng. Và nó chỉ diễn ra sau khi các chất độc bên trong do bệnh sản sinh ra được nấu chín và tiêu hóa (pepsis) trong quá trình viêm.
Những quan sát tinh tường của Hippocrates đã được khoa học hiện đại phát triển hơn nữa, sau đó đã khám phá ra cơ chế thực sự của nhiễm trùng, viêm nhiễm và chữa lành theo chính những phương pháp này.
Các triệu chứng bệnh thực sự có thể do các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn và vi-rút gây ra. Nhưng chúng ta cũng được dẫn dắt để nghĩ về chúng như những kẻ thù mà chúng ta cần phải chiến đấu. Thực tế là bệnh không bắt đầu khi chúng ta tiếp xúc hoặc bị nhiễm vi khuẩn hoặc vi-rút. Nó bắt đầu khi cơ thể bắt đầu phản ứng với tác nhân gây bệnh hoặc quá trình viêm nhiễm mà nó khởi động. Điều này có nghĩa là bệnh tật đồng nghĩa với việc chữa lành, đó là cách cơ thể trở lại trạng thái cân bằng (cân bằng nội môi). Bệnh tật là một dấu hiệu chắc chắn cho thấy cơ thể đang tham gia vào quá trình sửa chữa tình trạng cơ bản không có lợi cho hiệu quả và sự tồn tại của nó.
Điều quan trọng là phải hiểu điều này vì nó đảo ngược chính nền tảng mà lý thuyết tiêm chủng dựa vào. Phản ứng viêm của cơ thể con người đối với bệnh tật thực chất là một quá trình chữa lành. Các triệu chứng của bệnh là nỗ lực của cơ thể để xử lý các độc tố tích tụ, chất thải và các tế bào yếu hoặc bị tổn thương. Các tác nhân gây bệnh được gọi là hỗ trợ cơ thể tiêu hủy và loại bỏ các vật liệu có khả năng gây hại như vậy khỏi hệ thống, và đưa cơ thể trở lại trạng thái cân bằng khỏe mạnh.
Ngoài ra, mức độ phản ứng của cơ thể hoặc mức độ nghiêm trọng của bệnh không chỉ bị ảnh hưởng bởi mức độ nhiễm trùng mà còn bởi sức bền của hệ thống miễn dịch.
Sức mạnh chữa lành của cơ thể lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như trạng thái cảm xúc, nền tảng tinh thần, chế độ ăn uống, lối sống, môi trường, v.v. của mỗi cá nhân. Nó chắc chắn không phụ thuộc vào việc chúng ta đã được tiêm vắc-xin phòng ngừa các tác nhân truyền nhiễm hay chưa.
Nếu hệ thống miễn dịch yếu, cơ thể sẽ bị tắc nghẽn và nhiễm độc, hoặc ngược lại. Do đó, các tác nhân gây bệnh có khả năng xâm nhập vào cơ thể và bắt đầu quá trình giải độc (bệnh tật), mặc dù phần lớn các 'cuộc xâm lược' của vi khuẩn diễn ra âm thầm, không bao giờ làm phiền chúng ta. Hãy nghĩ về điều này. Cơ thể con người tiếp xúc với rất nhiều tác nhân gây bệnh mỗi ngày, một số trong số chúng là tác nhân gây ra các bệnh (được cho là) chết người. Nếu sự xâm nhập của vi khuẩn đồng nghĩa với bệnh tật và cái chết, thì hầu hết con người sẽ không sống được lâu.
Thuyết vi trùng: Tuy nhiên, chính giả định này đã được nhà khoa học người Pháp thế kỷ 19, Louis Pasteur, đưa ra trong Thuyết vi trùng nổi tiếng, từ đó trở thành nền tảng của y học hiện đại và vắc-xin.
Pasteur là nhà nghiên cứu đầu tiên cho rằng bệnh tật là do vi khuẩn gây ra. Theo ông, vi khuẩn hoặc tác nhân gây bệnh "theo đuổi chúng ta" vì chúng cần săn mồi chúng ta để sinh tồn. Ban đầu ông tin rằng nhiễm trùng/viêm bệnh tật là kết quả trực tiếp của việc vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể chúng ta nhưng sau đó ông đã rút lại lý thuyết đó vào thời điểm ông qua đời.
Trong các nghiên cứu vi mô về mô vật chủ trong các bệnh như vậy, Pasteur, Robert Koch và các đồng nghiệp của họ đã nhiều lần quan sát thấy rằng vi khuẩn sinh sôi trong khi nhiều tế bào vật chủ đang chết. Các nhà nghiên cứu này kết luận rằng vi khuẩn tấn công và phá hủy các tế bào khỏe mạnh và do đó bắt đầu một quá trình bệnh trong cơ thể.
Mặc dù giả định của Pasteur hóa ra là sai, nhưng nó đã đi vào thế giới khoa học và ngấm vào các nhà nghiên cứu và bác sĩ, và do đó huyền thoại rằng 'vi trùng gây nhiễm trùng và bệnh tật' đã trở thành hiện thực không thể chối cãi. Ngày nay, ý tưởng này vẫn tiếp tục thịnh hành như một 'chân lý khoa học' cơ bản trong hệ thống y tế hiện đại.
Pasteur cũng có thể dễ dàng kết luận rằng vi khuẩn thường bị thu hút đến những nơi có nhiều tế bào chết, giống như chúng bị thu hút bởi vật chất hữu cơ đang phân hủy ở những nơi khác trong tự nhiên.
Ruồi, kiến, quạ, kền kền và tất nhiên là cả vi khuẩn đều bị thu hút đến cái chết. Đây là một quy luật không thể tranh cãi của tự nhiên. Tại sao điều này lại khác trong cơ thể? Các tế bào yếu, bị tổn thương hoặc chết trong cơ thể con người cũng dễ bị nhiễm trùng vi khuẩn như một loại trái cây chín quá hoặc bị dập.
Pasteur và tất cả các nhà nghiên cứu đi theo bước chân của ông đã chọn nghĩ về vi khuẩn như động vật ăn thịt hoặc động vật ăn xác thối. Nếu họ cho rằng các tế bào chết vì những lý do sinh hóa không rõ ràng (như tích tụ độc tố), thì suy nghĩ hiện tại của chúng ta về bệnh tật và sức khỏe sẽ khá khác.
Thuyết "vi trùng ngang hàng với bệnh tật" của Pasteur về cơ bản đã bỏ qua hoặc ít nhất là bỏ qua hệ thống miễn dịch và sức mạnh chữa bệnh tuyệt vời, đôi khi là bí ẩn, của nó.
Tại sao nó lại sai: Thực tế là các bệnh viêm nhiễm/truyền nhiễm không thể do vi khuẩn gây ra mà nằm ở nhiều điểm yếu khác nhau của con người, khiến cho quá trình suy yếu và tử vong diễn ra.
Đây là một câu hỏi nhấn mạnh tinh tế. Trong khi vi khuẩn thực sự có liên quan đến quá trình gây bệnh, chúng chắc chắn không phải là, như Pasteur đã giả định, có ý định gây hại cho chúng ta; chúng cũng không phải là tác nhân thực sự gây ra các bệnh truyền nhiễm.
Vi khuẩn chỉ trở nên hung dữ với chúng ta khi đối mặt với chất độc mà chúng ta tạo ra. Cơ thể chúng ta không chiến đấu với vi khuẩn vì chúng là kẻ thù. Tương tự như vậy, vi khuẩn không chiến đấu với cơ thể chúng ta. Trên thực tế, có ít nhất 10 lần số lượng vi khuẩn so với tế bào của con người trong cơ thể, và không có loại nào trong số chúng gây hại cho chúng ta. Người ta ước tính có khoảng 500 đến 1000 loài vi khuẩn sống trong ruột người và một số lượng tương tự trên da.
Theo báo cáo trong Tạp chí Đánh giá Vi sinh vật học Hàng năm, hệ vi sinh vật của con người là tập hợp các vi sinh vật, lành tính và không lành tính, cư trú trên bề mặt và trong các lớp sâu của da, trong nước bọt và niêm mạc miệng, trong kết mạc và trong đường tiêu hóa. Chúng bao gồm vi khuẩn, nấm và vi khuẩn cổ (tế bào đơn). Mối quan hệ giữa vi khuẩn và con người không chỉ là cộng sinh (một sự cùng tồn tại không gây hại), mà đúng hơn là một mối quan hệ cộng sinh. Các vi sinh vật thực hiện một loạt các chức năng hữu ích như lên men các chất nền năng lượng chưa sử dụng, rèn luyện hệ thống miễn dịch, ngăn ngừa sự phát triển của các loài ký sinh trùng, điều chỉnh sự phát triển của ruột, sản xuất vitamin cho vật chủ (như biotin và vita-min K) và sản xuất hormone để chỉ đạo vật chủ lưu trữ chất béo. Chúng ta cần chúng và chúng cần chúng ta.
Nếu cơ thể bị quá tải với độc tố và các sản phẩm chất thải trao đổi chất bị mắc kẹt, các tế bào có thể bị thiếu oxy và chất dinh dưỡng nghiêm trọng và sau đó bị tổn thương hoặc chết. Một phản ứng miễn dịch như sốt cao hoặc cạn kiệt năng lượng có nghĩa là để làm sạch cơ thể khỏi những chất có hại này, nếu không có thể dẫn đến sự suy sụp cuối cùng của toàn bộ cơ thể. Sự hiện diện và hoạt động của các vi sinh vật phá hủy (nhiễm trùng) trong tình huống này, thúc đẩy phản ứng viêm của cơ thể, không chỉ là tự nhiên mà còn là điều mong muốn.
Vi sinh vật chỉ trở thành 'gây bệnh' khi sức khỏe của các cơ quan trong cơ thể suy yếu. Bệnh tật được hình thành do các điều kiện không lành mạnh như tích tụ độc tố và chất thải, và trong hầu hết các trường hợp, bản thân bệnh tật trở thành thuốc chữa bệnh làm sạch các cơ quan và hệ thống bị ảnh hưởng của cơ thể và giúp cơ thể khỏe mạnh trở lại.
Trong những tình huống ngộ độc cực độ, tắc nghẽn vật lý nghiêm trọng hoặc lạm dụng thuốc và vắc-xin y tế, hệ thống miễn dịch có thể bị quá tải bởi các chất độc mà nó cố gắng loại bỏ đến mức không thể cứu được cá nhân. Trong trường hợp xấu nhất, hệ thống miễn dịch không phản ứng với chất độc và vi khuẩn chút nào, và không có triệu chứng bệnh cấp tính nào xuất hiện (sốt, viêm, đau hoặc các dấu hiệu nhiễm trùng khác). Những cá nhân này thậm chí không thể bị cảm lạnh hoặc cúm, nếu không thì có thể đóng vai trò là lối thoát cho các chất độc này. Kết quả sau đó là một căn bệnh mãn tính, suy nhược như suy tim sung huyết, lupus, viêm khớp hoặc các rối loạn tự miễn dịch khác, hoặc tử vong.
3.2 Sự thật về Virus
Trái ngược với những gì y học thông thường muốn bạn tin, virus không gây tử vong. Nếu ai đó bị bệnh và cũng có virus trong cơ thể, thì người đó không bị bệnh vì virus. Bệnh phải tồn tại trước khi virus có thể xuất hiện.
Virus được thiết kế để thúc đẩy quá trình chữa lành, chứ không phải gây bệnh. Các triệu chứng như những triệu chứng do cơ thể tự chữa lành (sốt, đau đầu, chóng mặt, mệt mỏi, v.v.) không phải là bệnh. Ví dụ, tăng nhiệt độ cơ thể (sốt) là một trong những cách tốt nhất để cơ thể tăng sản xuất tế bào miễn dịch nhằm xử lý độc tố, sau đó loại bỏ vi khuẩn, virus và nấm khi chúng không còn cần thiết nữa.
Ví dụ, bệnh cúm là giai đoạn cuối cùng của quá trình chữa lành một căn bệnh tiềm ẩn; căn bệnh này bao gồm sự tích tụ của độc tố, thuốc, kim loại nặng, chất thải có tính axit, vật chất tế bào chết và các chất độc hại khác có thể dẫn đến tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
Nhiễm trùng chỉ đơn giản là dùng để phân hủy các chất có hại như kim loại, thuốc, hóa chất, thuốc trừ sâu, phụ gia thực phẩm và axit béo chuyển hóa từ thực phẩm nhà hàng hoặc thực phẩm chế biến sẵn, chất tạo ngọt nhân tạo, v.v.
Thông thường, một số chất độc hại này được cơ thể phân hủy, nhưng hầu hết cần vi khuẩn để loại bỏ. Tuy nhiên, một số hợp chất hóa học khác cần dung môi để hòa tan và loại bỏ chúng.
Đó là khi cơ thể tạo ra virus hoặc cho phép chúng được tạo ra và lây lan khắp cơ thể qua máu và bạch huyết. Do đó, chúng ta không cần phải tiêu diệt virus; chúng ở bên cạnh chúng ta.
Virus là những protein trơ mà cơ thể sản xuất ra để tấn công và hòa tan các chất độc hại này. Không giống như vi khuẩn, virus không phải là sinh vật sống. Chúng thực chất là những dải vật chất di truyền cực nhỏ - DNA và RNA - được chứa bên trong một lớp vỏ. Không giống như vi khuẩn, virus không thể sinh sản vì chúng không có hệ tiêu hóa hoặc hệ thống sinh sản.
Cơ thể con người sản sinh ra nhiều dung môi này hơn khi cần hòa tan các chất độc hại, và ngừng sản sinh khi nguy cơ ngạt thở tế bào giảm bớt. Virus hoạt động hiệu quả, giống như dung môi trong chất tẩy sơn, và đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải độc. Virus không ngừng sinh sôi vì cơ thể tấn công chúng; chúng giảm dần khi cơ thể không còn cần đến chúng nữa.
Tóm lại, virus chỉ có thể hoạt động và gia tăng số lượng trong một cơ thể độc hại mà vi khuẩn hoặc chính cơ thể không thể xử lý được. Cho phép tôi nhắc lại một điều quan trọng sau: Cơ thể con người chỉ tạo ra nhiều virus hơn khi cần phải loại bỏ các hóa chất thuốc, chất bảo quản thực phẩm, chất gây ô nhiễm không khí, cũng như các kim loại độc hại như thủy ngân và nhôm, thuốc trừ sâu, kháng sinh và các bộ phận động vật có trong mỗi loại vắc-xin.
Để tự bảo vệ, cơ thể có thể lưu trữ một lượng lớn virus khác nhau, nhưng chúng vẫn ở trạng thái không hoạt động cho đến khi có nhu cầu - chúng phải hoạt động và lây lan để thực hiện nhiệm vụ quan trọng của mình. Cơ thể sẽ loại bỏ và đào thải hầu hết chúng sau khi quá trình giải độc hoàn tất. Người ta thường tin rằng hệ miễn dịch sản xuất kháng thể để chống lại và tiêu diệt virus, nhưng điều này có thể không đúng. Vai trò thực sự của kháng thể sẽ được đề cập sau.
Việc tiêm vắc-xin cho một cá nhân để kích thích sản xuất kháng thể sẽ can thiệp vào cơ chế chữa lành cơ bản nhất của cơ thể, và tôi coi đó là một trong những vũ khí nguy hiểm nhất của y học hiện đại - thực sự là vũ khí hủy diệt hàng loạt.
>>Tiếp: 3.3 Ai là người cứu mạng?
GIỚI THIỆU
Tôi chưa bao giờ được tiêm vắc-xin phòng ngừa bất kỳ căn bệnh nào. Mẹ tôi, người có gia đình là những bác sĩ y khoa được kính trọng, đã từ chối nhượng bộ trước áp lực của các viên chức nhà trường và các bác sĩ chính thống, những người đã nói với bà một cách chắc chắn rằng bà đã đặt anh trai tôi và tôi vào tình thế nguy hiểm khi không tiêm vắc-xin theo khuyến cáo. Tuy nhiên, bản năng làm mẹ mạnh mẽ của bà đã chiến thắng; bà chỉ tin vào những cách tự nhiên để phát triển khả năng kháng bệnh.
Khi cuối cùng chúng tôi cũng trải qua một số căn bệnh thời thơ ấu điển hình, bà nói với chúng tôi rằng đây là một phần cần thiết để phát triển khả năng miễn dịch tự nhiên và chúng tôi không có lý do gì để tin vào điều ngược lại. Cả anh trai tôi và tôi đều chưa bao giờ mắc phải một căn bệnh truyền nhiễm nào trong hơn năm thập kỷ, ngoại trừ việc thỉnh thoảng bị cảm lạnh.
Vào đầu những năm 1980, tôi bắt đầu nghiên cứu lý thuyết đằng sau nhu cầu được cho là cần tiêm vắc-xin cá nhân và hàng loạt và phát hiện ra những sai sót nghiêm trọng, sự không đúng sự thật và sự lừa dối trắng trợn trong 'khoa học' hỗ trợ nó. Theo đó, tôi không tìm thấy bất kỳ giá trị khoa học nào để duy trì ý tưởng rằng vắc-xin bằng cách nào đó bảo vệ chúng ta khỏi bệnh tật bằng cách kích thích sản xuất kháng thể.
Hơn nữa, tôi biết rằng dữ liệu dẫn đến việc chấp nhận đơn phương tiêm vắc-xin là cách duy nhất để kiểm soát bệnh truyền nhiễm đã bị sửa đổi hoặc bị bóp méo. Bằng chứng giả mạo đã khiến hầu hết mọi người có ấn tượng rằng vắc-xin đã ngăn ngừa được dịch bệnh. Không có gì có thể xa rời sự thật hơn.
Lấy ví dụ, trường hợp vắc-xin cúm, được thúc đẩy tiêm cho trẻ sơ sinh, người lớn và người già năm này qua năm khác. Cochrane Collaboration thường xuyên xem xét các tài liệu khoa học bao gồm các nghiên cứu mới về hiệu quả của vắc-xin cúm. Tuy nhiên, sau khi đã điều tra hàng trăm nghiên cứu này cho đến nay, vẫn không có bằng chứng nào cho thấy vắc-xin cúm có tác dụng bảo vệ so với giả dược.
Việc hoàn toàn thiếu bằng chứng lâm sàng để hỗ trợ tiêm chủng như một phương pháp phòng ngừa bệnh tật đã tự nói lên điều đó. Tiêm chủng không chỉ không ngăn ngừa được bệnh tật; mà còn trở thành một trong những tác nhân lớn nhất góp phần vào bệnh tật.
Những gì bạn sắp đọc trong cuốn sách này có thể khiến bạn sốc, nhưng hãy yên tâm rằng hầu hết mọi tuyên bố trong cuốn sách này đều dựa trên các sự kiện khoa học có thể kiểm chứng.
2.1 Một vài sự thật đơn giản
Sau đây là một số sự thật đơn giản mà các công ty y khoa và dược phẩm không muốn bạn biết:
· Vắc-xin, không phải vi-rút, gây ra bệnh tật
· Virus gây ra sự chữa lành; chúng không phải là kẻ thù của chúng ta mà là ở bên cạnh chúng ta
· Dịch cúm lợn năm 2009 là một loại vi-rút do con người tạo ra, được biến đổi gen
· AIDS đã du nhập vào Châu Phi để phương Tây có thể thu được lợi nhuận kinh tế khổng lồ từ nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú của lục địa này
· Nhiều loại vắc-xin được biến đổi gen để thực sự gây bệnh để sau đó có thể phát minh ra 'thuốc chữa bệnh phòng ngừa' nhằm cứu nhiều quần thể khỏi những 'bệnh chết người' này
· 'Sự thật khoa học' - rằng vi khuẩn gây bệnh - và là cơ sở cho các chính sách chăm sóc sức khỏe hiện đại, chỉ là một huyền thoại
· Vắc-xin có những tác dụng phụ nghiêm trọng bao gồm các rối loạn tự miễn dịch, hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh và chứng tự kỷ
Sự thật khoa học thực sự không dễ chấp nhận đối với ngành công nghiệp dược phẩm và các nhà hoạch định chính sách, những người cực kỳ thông minh. Đây không phải là huyền thoại! Nhưng việc trục lợi là đặc quyền của những kẻ khôn ngoan và là nền tảng của Big Pharma, nơi hàng tỷ đô la phụ thuộc vào việc duy trì huyền thoại về căn bệnh. Nói cách khác, nó mang lại phần thưởng lớn cho các nhà sản xuất vắc-xin và các chính phủ mà họ thông đồng để khiến chúng ta bị bệnh hoặc khiến chúng ta sống trong nỗi sợ hãi bị bệnh.
Trong số nhiều quan niệm sai lầm mà họ đã đưa vào ý thức tập thể của chúng ta là vắc-xin là điều kiện tiên quyết cho sức khỏe tốt. Do đó Họ đã khiến thế hệ này qua thế hệ khác tin rằng chúng là những vị cứu tinh mang lại tuổi thọ. Trong cuốn sách này, chúng ta sẽ khám phá huyền thoại về vắc-xin đã được các công ty dược phẩm sử dụng một cách tài tình, những công ty đã kiếm lợi từ sự thiếu hiểu biết, sợ hãi và dễ bị tổn thương của chúng ta trong hơn một thế kỷ.
2.2 Những lầm tưởng về vắc-xin
Trên thực tế, tiêm chủng là một trong những nghi lễ đầu tiên mà trẻ sơ sinh phải tuân theo một loại 'bảo hiểm sức khỏe' trong suốt quãng đời còn lại của chúng ta. Trong các chương tiếp theo, tôi sẽ giải thích tại sao vắc-xin thực sự là kẻ giết người thầm lặng, hoặc ít nhất là tác nhân gây bệnh mà chúng ta có thể sống mà không cần đến.
Dưới đây là năm quan niệm sai lầm cơ bản về vắc-xin giúp bạn thấy chúng ta đã bị lừa dối như thế nào.
Lầm tưởng số 1: Vắc-xin ngăn ngừa bệnh tật
Sự thật: Lịch sử đưa ra nhiều ví dụ về cách vắc-xin gây ra và lây lan chính căn bệnh mà chúng được cho là có tác dụng ngăn ngừa. Tài liệu về vắc-xin đầy rẫy những ví dụ về những cá nhân và nhóm người đã được tiêm vắc-xin phòng ngừa một căn bệnh truyền nhiễm và đã mắc bệnh ở giai đoạn sau.
Lầm tưởng số 2: Vắc-xin có thể tiêu diệt bệnh tật
Sự thật: Các bệnh truyền nhiễm đã giảm trong nhiều tháng và nhiều năm trước khi có các chiến dịch tiêm chủng hàng loạt. Vệ sinh, vệ sinh và dinh dưỡng được cải thiện khiến mọi người khỏe mạnh hơn, điều này cũng khiến họ có khả năng chống lại các bệnh nhiễm trùng và bệnh tật một cách tự nhiên hơn. Ngược lại, có rất nhiều trường hợp các bệnh như ho gà và sởi, được cho là đã bị 'xóa sổ', đã quay trở lại một cách dữ dội, đôi khi, như ở nhiều quốc gia châu Phi, gây ra các dịch bệnh bất chấp (hoặc vì) các chiến dịch tiêm chủng hàng loạt.
Lầm tưởng số 3: Vắc-xin tăng cường khả năng miễn dịch
Sự thật: Không thể chối cãi: vắc-xin làm tổn hại hệ thống miễn dịch. Do thành phần tổng hợp, hóa học và di truyền của chúng, chúng gây ra tình trạng quá tải độc tố. Chúng làm suy yếu hệ thống miễn dịch và thực sự làm suy yếu khả năng chống lại bệnh tật và chữa lành cơ thể. Vắc-xin đánh lừa hệ thống miễn dịch và tạo ra khả năng miễn dịch nhân tạo. Điều này rất khác với cách miễn dịch tự nhiên hoạt động. Việc can thiệp vào quá trình tinh tế này sẽ phải trả giá đắt.
Lầm tưởng số 4: Vắc-xin an toàn
Sự thật: Các bác sĩ báo cáo hàng ngàn phản ứng nghiêm trọng với vắc-xin mỗi năm, bao gồm hàng trăm ca tử vong và tàn tật vĩnh viễn. Tổn thương lâu dài bao gồm các rối loạn thần kinh và bệnh tự miễn. Trên thực tế, các nhà nghiên cứu quy hàng chục tình trạng miễn dịch và thần kinh mãn tính cho các chương trình tiêm chủng hàng loạt trên toàn cầu.
Lầm tưởng số 5: Lý thuyết về vắc-xin dựa trên các nguyên tắc khoa học hợp lý
Sự thật: Lý thuyết về mầm bệnh của Louis Pasteur - mà ông đã rút lại trước khi qua đời đã trở thành nền tảng của y học thông thường và tiêm chủng. Tuy nhiên, hàng chục cuốn sách do các bác sĩ, nhà nghiên cứu và nhà điều tra độc lập viết đã tiết lộ những sai sót nghiêm trọng trong lý thuyết và thực hành tiêm chủng.
Chỉ để chúng ta không rơi vào tay những kẻ đầu cơ trục lợi và để bảo vệ sức khỏe của mình, điều quan trọng là phải được thông tin đầy đủ và được trang bị kiến thức về cách cơ thể con người hoạt động. Nó đơn giản và không đòi hỏi bất kỳ cơ sở khoa học nào. Thường thì sự thật đơn giản đang cầu xin được hiểu nhưng chúng ta thà tin rằng những vị cứu tinh y khoa của chúng ta mặc áo khoác trắng.
Nếu đó là một điều khó chấp nhận, điều quan trọng là phải hiểu động cơ đằng sau những "chân lý khoa học" được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong khi con em chúng ta đang được tiêm vật liệu sinh học và hóa học biến đổi gen được ngụy trang dưới dạng vắc-xin.
Có lẽ chúng ta cũng đáng trách, vì chẳng phải tất cả chúng ta đều có xu hướng thích các giải pháp nhanh chóng sao? Lợi dụng điều này, khoa học vắc-xin phát triển mạnh mẽ nhờ một sai lầm tinh tế nhưng cơ bản. Họ đã dựa trên cách tiếp cận của mình vào việc tạo ra khả năng miễn dịch suốt đời đối với một căn bệnh truyền nhiễm-viêm mà không cần phải trải qua căn bệnh đó trước.
Giả định của họ là bằng cách có kháng thể trong máu đối với một số loại vi khuẩn gây bệnh, bạn sẽ tự động được bảo vệ khỏi chúng. Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn chưa thể chỉ ra liệu khả năng bảo vệ khỏi vi khuẩn là do sự hiện diện của kháng thể hay do phản ứng miễn dịch khỏe mạnh bình thường. Trên thực tế, khả năng thứ hai là đúng nhiều hơn, trừ khi chất độc trong vắc-xin đã làm hỏng hoặc thậm chí làm tê liệt hệ thống miễn dịch.
Lý thuyết cho rằng việc phơi bày cơ thể với mầm bệnh sẽ kích hoạt phản ứng miễn dịch tương tự như phản ứng được tạo ra trong quá trình trải nghiệm bệnh thực sự là sai lầm nghiêm trọng. Liệu tự nhiên có thể mắc phải sai lầm nghiêm trọng đến mức khiến chúng ta phụ thuộc vào việc tiêm chất độc hại lạ vào máu khi chúng ta có hệ thống miễn dịch phức tạp và phát triển cao đến mức hàng triệu máy tính tinh vi không thể bắt chước được hiệu suất của nó? Điều này khá khó xảy ra.
Vậy thì tại sao bạn lại muốn giao phó sức khỏe của mình cho một hỗn hợp các hóa chất độc hại khi ngay cả một hệ thống miễn dịch suy yếu đôi chút cũng có cơ hội bảo vệ bạn khỏi tác hại của một cơn cúm tốt hơn nhiều? Hệ thống miễn dịch tinh vi của cơ thể chúng ta, đã tiến hóa qua hàng triệu năm, chắc chắn có thể bảo vệ bạn khỏi bệnh tật tốt hơn bất kỳ thứ gì do con người tạo ra. Tất cả những gì nó cần là một số sự chăm sóc cơ bản từ phía bạn. Mặt khác, với mỗi lần tiêm vắc-xin mới, hệ thống miễn dịch của bạn sẽ suy yếu hơn và các tác dụng phụ trở nên rõ rệt và nghiêm trọng hơn. Và, bạn vẫn có thể bị bệnh.
2.3 Đại dịch là do con người tạo ra
Trước khi chúng ta khám phá chủ đề này chi tiết trong các chương tiếp theo, chúng ta sẽ đề cập ngắn gọn về sự thật đằng sau các đại dịch. Không còn nghi ngờ gì nữa, đại dịch là do con người tạo ra hoặc do các chương trình tiêm chủng, nạn đói, vệ sinh kém và thuốc kháng sinh, tất cả đều làm suy yếu hệ thống miễn dịch. Nhiễm trùng do vi-rút là hậu quả của bệnh tật, không phải là nguyên nhân gây ra bệnh, cũng giống như vi khuẩn chỉ có khả năng lây nhiễm các tế bào không khỏe mạnh, yếu hoặc bị tổn thương.
Vi khuẩn và vi-rút không tấn công chúng ta một cách hung dữ hoặc bừa bãi. Thiên nhiên không chống lại chính nó, nếu nó làm vậy, tất cả chúng ta sẽ chết. Không có chiến tranh giữa con người và thiên nhiên, trừ khi tất nhiên, chúng ta cố gắng phá hủy nó hoặc làm đảo lộn sự cân bằng của các lực lượng và tài nguyên tự nhiên và sau đó gọi quá trình tái cân bằng là bệnh tật hoặc thảm họa thiên nhiên. Tuy nhiên, quần chúng đã bị mắc bẫy khoa học giả này vì nó đã được trình bày một cách khéo léo với họ.
Phân tích số liệu thống kê chính thức từ một số quốc gia và lịch sử các bệnh như đậu mùa, bạch hầu, tả, thương hàn, bại liệt, lao, viêm phế quản, uốn ván, v.v. đã tiết lộ những phát hiện đáng kinh ngạc. Ví dụ, bệnh bạch hầu ở Pháp đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại khi bắt đầu tiêm chủng bắt buộc và ngay lập tức giảm trở lại sau khi vắc-xin bị ngừng sử dụng.
Tình hình không khác mấy ở Đức khi việc tiêm chủng bắt buộc phòng bệnh bạch hầu được triển khai trên diện rộng từ năm 1925 đến năm 1944. Trong giai đoạn này, số nạn nhân mắc bệnh bạch hầu tăng từ 40.000 lên 240.000, với tỷ lệ nhiễm trùng cao hơn ở những bệnh nhân đã được tiêm chủng. Năm 1945, khi Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, vắc-xin không còn có sẵn ở Đức và trong vòng vài năm, số ca mắc bệnh đã giảm xuống dưới 50.000.
Dữ liệu thống kê cho thấy hầu hết các bệnh này đều suy giảm nhanh chóng và liên tục trước khi các chương trình tiêm chủng được triển khai. Các đại dịch bắt đầu xảy ra khi người dân từ các vùng nông thôn chuyển đến các thành phố lớn. Đường phố được sử dụng làm bãi rác, làm ô nhiễm không khí và nước và trở thành nguồn gốc của các bệnh truyền nhiễm. Chỉ có một cuộc tổng vệ sinh lớn ở những thành phố đông đúc này và cải thiện điều kiện vệ sinh, vệ sinh cá nhân và nhà ở mới có thể ngăn chặn các đại dịch và dẫn đến những cải thiện đáng kể về sức khỏe của cá nhân và cộng đồng. Các chương trình tiêm chủng không liên quan gì đến điều đó.
2.4 Vòng tay tử thần của Big Pharma
Vậy tại sao chúng ta lại tin rằng vắc-xin là thứ cứu mạng? Việc truyền bá quan niệm rằng vi-rút và vi khuẩn gây bệnh là một phương tiện để giữ cho quần chúng sợ hãi và kiểm soát. Và có thể kiếm được nhiều tiền từ những quan niệm sai lầm như vậy.
Trong những năm 1960, ngành công nghiệp vắc-xin bị thiếu vốn trầm trọng vì dịch bệnh không thấy đâu cả. Người ta lập kế hoạch sản xuất các chủng virus mới (để sử dụng chúng gây ung thư ở động vật cho mục đích 'nghiên cứu ung thư'). Tuy nhiên, trên thực tế, việc pha trộn một số chủng virus, thường không có trong tự nhiên, đã dẫn đến những khả năng mới phá hoại hệ thống miễn dịch của ngay cả những người khỏe mạnh. Mục đích là tạo ra các căn bệnh mới mà khả năng miễn dịch tự nhiên không thể làm được. Khi được tiêm vào người thông qua vắc-xin, các hỗn hợp virus này sẽ vô hiệu hóa hệ thống miễn dịch, phá hủy nhân tế bào và kích hoạt sản xuất các loại retrovirus ở người như HIV.
Vâng, câu chuyện về AIDS là một ví dụ gây sốc và bi thảm như vậy. Năm 1962, các nhà khoa học UCLA đã chế tạo ra một chủng virus mới để gây ung thư ở động vật (được cho là để nghiên cứu ung thư). Họ đã kết hợp một loại virus ở động vật với một loại virus đậu mùa sau đó được một công ty dược phẩm lớn sản xuất thành vắc-xin đậu mùa.
Vắc-xin được hào phóng tặng cho Châu Phi để tiêm chủng cho 125 triệu người.
Thật là một cử chỉ thiện chí! Những người có hệ miễn dịch yếu nhất đã phát triển các triệu chứng suy giảm miễn dịch nghiêm trọng, sau đó bị hiểu sai là bệnh AIDS. Trong số 125 triệu người được tiêm vắc-xin, 98 triệu người đã phát triển bệnh AIDS. Căn bệnh mới này hóa ra lại là cỗ máy kiếm tiền khổng lồ và là con bài mặc cả cho các quốc gia giàu có để khiến và giữ những quốc gia nghèo này phụ thuộc vào họ bằng cách phân phối bao cao su để kiểm soát dân số và các loại thuốc AIDS mạnh (phá hủy miễn dịch) để 'chữa khỏi' AIDS.
Thuốc chống AIDS bắt đầu đổ vào thế giới đang phát triển trở thành phương tiện ngăn chặn sự trỗi dậy và độc lập của nền kinh tế các nước nghèo. Vì vậy, để giúp các nước này 'sống sót' sau cuộc tấn công của một loại vi-rút chết người và để đổi lấy các loại thuốc đắt tiền và không đủ khả năng chi trả, các nước phát triển đã thuyết phục các nước nghèo ký các thỏa thuận chuyển giao các quyền sản xuất kinh tế quan trọng và tài nguyên thiên nhiên.
Huyền thoại về virus là một công cụ tiện lợi để kiểm soát mọi người. Đây là sự thật cơ bản. Thuốc giải độc thực sự duy nhất cho trò chơi gian xảo của các chính trị gia và nhà sản xuất vắc-xin là tự giáo dục bản thân và ngừng đóng vai nạn nhân trong trò chơi quyền lực chết người này.
>>Tiếp: 3. Chương 1 - Huyền thoại về vắc-xin